Toàn cảnh cuộc đối đầu lịch sử Việt - Mỹ 1954-1975

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến vĩ đại của thế kỷ 20, đánh bại đội quân hùng mạnh nhất thế giới trong một cuộc chiến mà mức độ thảm khốc chỉ đứng sau thế chiến. Đó là niềm tự hào mãi mãi của dân tộc, là ngọn cờ đấu tranh vĩnh cửu cho các dân tộc bị áp bức noi theo. Ấy vậy mà hiện nay có không ít "những kẻ do vô ý, sinh ra" lẫn vào dòng máu Việt, mang theo tàn dư bệnh hoạn của cái lũ đội giặc lên đầu, coi rẻ dân tộc mình. Chúng nghi hoặc về một thời đại lịch sử bi tráng của dân tộc, tức là chúng phỉ nhổ vào bao nhiêu xương máu của cha ông. Chúng leo lẻo bênh vực cho lũ giết người quốc tế và bọn tay sai bằng lý lẽ của những kẻ có mắt như mù. Đơn giản là với cái não trạng ngu muội, với bản chất tầm thường chúng không thể nào hình dung và hiểu được những gì thuộc về vĩ đại. Nhiễu nhương của thời mở cửa đón ngọn gió kim tiền vô hình chung lại là môi trường thích hợp cho những kẻ như vậy sinh sôi nảy nở. Nhưng như trong bóng đêm có ánh sao dẫn đường, trong khó khăn có những bàn tay chìa ra giúp đỡ, cuộc sống luôn có sẵn những con người chân chính để chỉ cho ta con đường đúng để đi theo. Blogger Thiếu Long là một người như vậy.
"Nhà sử học nghiệp dư" này đã rất mất nhiều thời gian, công sức tìm hiểu tài liệu để giúp chúng ta có cái nhìn về "toàn cảnh cuộc đối đầu lịch sử Việt - Mỹ" qua một bài viết khá "nặng ký", có thể coi như một cuốn sách mỏng. Bài viết đã được rất nhiều bạn đọc đánh giá cao vì nó đem lại một góc nhìn hoàn toàn công tâm, với những dữ liệu từ cả 2 phía, đặc biệt là bao gồm nhiều thông tin "mới ra lò" gần đây. Đúng như tên gọi "toàn cảnh", bài viết phủ một tầm quét rất rộng, bao quát nhiều vấn đề liên quan đến cuộc chiến. Điều quan trọng nhất là cách viết tự nhiên, lôi cuốn như người kể chuyện chứ không "khô khan" như những cuốn giáo trình sử. Nhờ vậy, chúng ta có thể dễ dàng để "nuốt" hết 30 năm kháng chiến chống Mỹ, một cách thú vị với đầy đủ thông tin cần thiết. Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của Thiếu Long, bởi như bạn ấy tâm sự thì: "Cả tháng này ngủ hơi bị ít, hầu như ko có thời gian làm gì khác, đi chơi giải trí, hầu như chỉ đi cày, làm việc nhà thường ngày, ăn uống nghỉ ngơi, thời gian còn lại là vùi đầu vào đây". Những "cống hiến" như vậy, đầu óc của những kẻ tầm thường sẽ không bao giờ hiểu được, cũng như chúng chưa bao giờ hiểu về sự hy sinh vĩ đại của những thế hệ đi trước để chúng có cuộc sống yên ổn hôm nay.
Cám ơn Thiếu Long và mong các bạn đọc hãy chia sẻ bài viết này tới tất cả bè bạn, người thân của mình như một sự tri ân với các thế hệ đi trước, như một niềm tự hào của mỗi người con đất Việt và như một sự động viên đối với tác giả.

Phần 1: Bản chất một cuộc xâm lược không thể biện minh

Các mục chính:

I.1. Bản chất cuộc chiến Mỹ - Việt 1954-1975

I.2. Tính bất hợp pháp của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam

I.2A. Luật pháp Việt Nam

I.2B. Luật pháp Hoa Kỳ

I.2C. Luật pháp quốc tế

I.3. Bản chất một thuộc địa kiểu mới

I.4. Bản chất và nguồn gốc của chính quyền Sài Gòn

I.5. Các nhân vật phía bên kia hé lộ bản chất cuộc chiến

I.6. Những trí thức bên ngoài chính phủ Mỹ nói về cuộc chiến

Thấm thoát đã 38 năm trôi qua, trên đất Việt ngày nay đã không còn khói lửa chiến chinh. Nhưng trong tâm khảm của nhiều người Việt Nam, nhất là những người được sống, được chứng kiến, được hòa mình vào cuộc chiến bi hùng của dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vẫn vang vọng bản hùng ca đầy cảm khái.

Cách đây 38 năm, người Việt Nam đã hoàn thành một trong những kỳ tích chiến công hiển hách nhất trong lịch sử Việt Nam và thế giới, khiến cho dư âm cuộc chiến này vẫn vang vọng khắp năm châu trong thế giới ngày nay.

Vào những ngày cuối tháng tư 38 năm về trước, những người Mỹ cuối cùng trên đất Việt buộc phải chấm dứt hoàn toàn mọi hình thức xâm lược và rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sự thương vong và thiệt hại nặng nề của Mỹ đã không giúp cho ý đồ nào của họ đạt được. Họ đến xứ Việt xa xôi cách nước Mỹ nửa vòng trái đất, với gần 60 vạn binh hùng tướng mạnh, nhưng họ đã phải ra đi với hai bàn tay trắng và bỏ lại sau lưng gần 6 vạn xác binh tướng viễn chinh, trong đó có 37 người cấp tướng. Chưa có một cuộc chiến nào trong quân sử Hoa Kỳ mà số binh lính và các tướng chết trận nhiều như vậy. Đến nỗi sau này chính phủ Mỹ đã cho xây Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington DC, để tưởng niệm những quân nhân Mỹ đã tử trận ở Việt Nam.

Ba chiến lược chiến tranh (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh), 2 chiến lược tác chiến (Tìm và Diệt của tướng William Westmoreland và Quét và Giữ của tướng Creighton Abrams), chiến thuật Trực thăng vận, Thiết xa vận của Mỹ đều bị phá sản trên chiến trường Việt Nam.

Trong quá trình xâm lược Việt Nam, với ý chí quyết thắng bằng mọi giá, Mỹ đã sáng tạo, nghiên cứu nhiều công nghệ mới, đặc chế nhiều vũ khí, công cụ chiến tranh mới. Họ đã nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng 3 loại hình chiến tranh công nghệ cao: Chiến tranh điện tử (electronical warfare), chiến tranh hóa học (chemical warfare) và chiến tranh khí tượng (weather warfare). Trong đó, chiến tranh điện tử và chiến tranh khí tượng là lần đầu tiên quân đội Mỹ áp dụng trong chiến sử Hoa Kỳ. Song tất cả nỗ lực đó đều thất bại trên chiến trường Việt Nam.

I.1. Bản chất cuộc chiến Mỹ - Việt 1954-1975


Đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ và là cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ để bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam. Việt Nam đã giành độc lập vào năm 1945, nên cuộc chiến tranh này (cũng như cuộc chiến chống Pháp từ năm 1945 đến 1954) không phải là cuộc chiến giành độc lập mà là cuộc chiến giữ gìn độc lập và bảo vệ Tổ quốc, chống sự xâm lược và chiếm đóng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, giành lại hoàn toàn độc lập chủ quyền dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Không phải chỉ có người Việt Nam mới có nhận định này, mà đây cũng là nhận xét chung của đông đảo trí thức, học giả, sử gia, nhà nghiên cứu, chính trị gia, nhà quân sự trên thế giới, bao gồm cả người Mỹ, trong đó có cả những cựu quân nhân chiến tranh Việt Nam của Mỹ và cựu quân nhân quân đội Sài Gòn.

Nguyên nhân có cuộc chiến từ năm 1954 đến 1975 là do Mỹ đã xâm lược và chiếm đóng nửa nước Việt Nam. Bản chất cuộc chiến này là một cuộc chiến tranh tự vệ, đánh đuổi giặc xâm lược từ bên ngoài, giữa quân dân Việt Nam ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam và gần 60 vạn quân viễn chinh từ Hoa Kỳ cùng các chư hầu, ngụy quân của họ.

Ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn đầu tiên do giặc xâm lược thực dân Pháp lập ra trong cuộc chiến cướp lại thuộc địa của họ, sau đó được Mỹ nắm lấy. Ngụy quyền Sài Gòn không có thực quyền, là những bù nhìn, con rối của chính phủ Pháp - Mỹ. Các ngụy quyền cờ ba sọc ở miền Nam dưới bàn tay 2 mẫu quốc chưa bao giờ hội đủ các nhân tố, đặc tính, thực lực, thực quyền, giá trị, căn cước của một quốc gia đúng nghĩa, của một đất nước có đầy đủ chủ quyền, có đủ sự độc lập về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.

Cả bộ máy ngụy quyền được giặc xâm lược tạo dựng một cách bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp Việt Nam (theo Hiến pháp 1946 và 1959), và vi phạm tất cả các hiệp định pháp lý mà các bên liên quan đã ký (theo hiệp định Genève 1954 và hiệp định Paris 1973). Pháp - Mỹ đã dựng và nuôi những "quốc gia" lên trên quốc gia Việt Nam đã tồn tại mấy ngàn năm và đã phục hưng nền độc lập tự chủ từ năm 1945. Họ đã dựng và nuôi những "nhà nước" lên trên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập từ 1945. Họ tạo ra những "Quốc hội" lên trên Quốc hội đã tổ chức bầu cử toàn dân toàn quốc vào năm 1946.

Bản chất của cuộc chiến tranh này cũng như bản chất của các bên không liên quan đến kết quả thắng thua. Trong lịch sử Việt Nam và thế giới có nhiều kẻ thắng không thành chính nghĩa, người thua nhưng không ai coi là giặc, trái lại được coi là anh hùng. Như người ta hay nói: "Không thể lấy thành - bại luận anh hùng". Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngay trong lúc cuộc chiến đang diễn ra, chưa có kết quả thắng - bại, thì nhân dân cả nước, trước hết là người dân miền Nam đã xem các chính quyền bù nhìn của giặc là những ngụy quyền, và gọi họ là "bọn ngụy".

Nhiều trí thức, học giả, nhà nghiên cứu trên thế giới, kể cả nhiều người nằm trong chính phủ Mỹ và ngụy quyền của Mỹ, những người thua trận, những người khách quan trung lập bên ngoài không liên quan đến cuộc chiến, những người không ở trong chính phủ Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam, không thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban tuyên giáo, hay thuộc các nhóm tác giả biên soạn sách giáo khoa Việt Nam, hay thuộc các nhóm sử gia trong ngành sử học Việt Nam, cũng có quan điểm tương đồng với quan điểm chính thức của nhà nước Việt Nam và quan điểm chính thống của đại khối dân tộc Việt Nam.

I.2. Tính bất hợp pháp của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam


Đã là chiến tranh xâm lược, nước này gây hấn trước, đem quân tấn công, tiến đánh nước kia vì các mục đích và lợi ích của họ thì ít nhiều gì nó đã có tính chất bất hợp pháp. Nhưng tính chất bất hợp pháp của cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam thì lại ấn tượng và dễ thấy hơn nhiều so với các cuộc chiến phức tạp khác.

Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã vi phạm luật pháp Việt Nam, luật pháp Hoa Kỳ, và luật pháp quốc tế. Mỹ trực tiếp đổ quân vào Việt Nam và tấn công những vùng giải phóng của miền Nam, xâm phạm không phận, hải phận và dội bom phá hoại miền Bắc. Đến năm 1969, số lượng thực binh Mỹ ở Việt Nam đã lên đến hơn 55 vạn quân. Và sự đổ quân xâm nhập, trực tiếp tiến hành chiến tranh này là một hành động tự tiện mà không theo bất kỳ một hiệp định ký kết, một văn kiện chính thức, một điều luật quốc tế, hay bất kỳ cơ sở pháp lý chính danh nào.

I.2A. Luật pháp Việt Nam


Nói đến tính chính danh và hợp pháp ở Việt Nam thiết nghĩ cần nhìn lại lịch sử Việt Nam. Lực lượng cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản Việt Nam đã đấu tranh giành độc lập trong thời Pháp thuộc, đấu tranh ở cả trong và ngoài nước. Năm 1930, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thống nhất các đảng phái cộng sản ở Việt Nam lại thành 1 Đảng tiền phong. Sau đó lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập các Mặt Trận đoàn kết khác nhau để chống Pháp - Nhật giành độc lập, trong đó nổi tiếng nhất là Mặt trận Việt Minh.

Năm 1944, Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thống nhất các tổ chức vũ trang cách mạng như Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (lực lượng nòng cốt, đấu tranh chính trị có vũ trang), quân du kích Nam Kỳ, Đội du kích Bắc Sơn, Đội du kích Ba Tơ, Cứu quốc quân v.v. lại thành một quân đội chính thức của quốc gia, là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này.

Trong thời kỳ này, lực lượng cách mạng Việt Nam đã đi đầu và lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống Pháp - Nhật trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), phong trào dân chủ Đông Dương (1936-1939), khởi nghĩa lớn ở Nam Kỳ (1940), khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), cao trào kháng Nhật cứu nước (1945 - phá kho thóc cứu dân, mở Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, mở rộng đấu tranh ở nông thôn, thành thị và các khu công nghiệp), khởi nghĩa Ba Tơ chống Nhật (1945).

Năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (trước đó tên là Tân Việt Cách mạng Đảng), và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, cuộc kháng chiến ở Việt Nam với hạt nhân là lực lượng công nhân và nông dân đã chuyển biến mạnh mẽ. Đến tháng 9 năm 1930, đã có hàng loạt cuộc đấu tranh quy mô lớn. Nông dân Nghệ-Tĩnh đã vũ trang tấn công vào bộ máy cai trị của chế độ thuộc địa, tiêu biểu như: Biểu tình của hơn 3.000 nông dân huyện Nam Đàn (30/8/1930), của gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương (1/9/1930), của hơn 3.000 nông dân huyện Can Lộc (7/9/1930)...., đỉnh cao là cuộc biểu tình đẫm máu ngày 12/9/1930 của khoảng 8.000 nông dân phủ Hưng Nguyên kéo đến phủ lỵ với những khẩu hiệu: "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến! Bỏ sưu thuế, chia ruộng đất". Thực dân Pháp dùng máy bay ném bom giết chết 217 người.

Cuộc nổi dậy Xô viết Nghệ Tĩnh kéo dài tới năm 1931, dẫn tới sự tan rã bộ máy ngụy quyền địa phương của thực dân và hình thành các chính quyền nhân dân. Tại Nghệ An, tổ chức Nông hội đã nắm chính quyền ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu. Tại Hà Tĩnh, các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thọ có 172 xã thành lập chính quyền cách mạng.

Khí thế của Xô viết Nghệ Tĩnh nhanh chóng lan rộng trong cả nước. Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh. Cuối cùng, do vũ khí thô sơ, thiếu kinh nghiệm tổ chức, thực dân Pháp xua quân tấn công, lực lượng nghĩa quân bị đàn áp và phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh tan rã.

Năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ trong hoàn cảnh nước Pháp bị bại trận trong Thế chiến II, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương. Ngày 23 tháng 11, khởi nghĩa đã diễn ra ở Mỹ Tho, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Bạc Liêu.... đã gây nhiều tổn thất nặng cho giặc ngoại xâm và gây tiếng vang lớn. Nhưng sau đó Pháp - Nhật thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa, hàng ngàn người bị giết và bị bắt, nhiều làng bị đốt phá, nhiều cán bộ đảng viên cao cấp như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai.... bị xử tử. Lực lượng khởi nghĩa một số rút được về U Minh, Đồng Tháp.
Biểu tượng của Nam Kỳ khởi nghĩa

Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống Pháp - Nhật. Sau một thời gian nắm tình hình trong nước và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh). Đây là một mặt trận đoàn kết dân tộc do Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập và lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ trước mắt, đó là chống Pháp - Nhật giành độc lập và thống nhất đất nước.

Tối 9/3/1945, Nhật chính thức đảo chính Pháp (chính quyền chống phát xít của Pháp do Charles de Gaulle lãnh đạo) trên toàn bán đảo Đông Dương. Sau khi độc chiếm Đông Dương, chính phủ Nhật liền thi hành chính sách mua chuộc, hứa hẹn mị dân, quảng bá thuyết Đại Đông Á, kết hợp với chính sách đàn áp bằng võ lực.

Về chính trị, Nhật tuyên bố trao trả "độc lập" cho Việt Nam, dựng lên "Đế quốc Việt Nam", đưa lên cựu hoàng Bảo Đại và nhà nho Trần Trọng Kim, giữ nguyên bộ máy cai trị thuộc địa của Pháp và thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Nhật cho quân đội tấn công vào các chiến khu và cơ sở cách mạng của Việt Minh.

Về kinh tế, Nhật chiếm các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, in giấy bạc mới tung ra thị trường, cướp lấy tài nguyên, hàng hóa, lương thực và cướp đoạt tài sản dân chúng; làm cho nền kinh tế Đông Dương bị kiệt quệ, cuộc sống người dân điêu đứng. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng 10/1944 còn là 1.150 đồng/tạ, thì đến tháng 2/1945 đã là 1.000 đồng/tạ. Tình trạng đó đã dẫn đến nạn đói Ất Dậu, làm gần 2 triệu người bị chết đói.

Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ và chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa (Cách mạng tháng tám).

Phong trào đã diễn ra mạnh mẽ và tấn công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự trên khắp các thành thị, nông thôn và miền núi. Phong trào đã chiếm giữ được nhiều vùng rộng lớn, hình thành nhiều căn cứ Việt Minh.

Quân đội Nhật đã mở các cuộc càn quét, bình định, tấn công mạnh vào những vùng giải phóng. Lực lượng Việt Minh, các đội dân quân - tự vệ, du kích đã chống trả quyết liệt, tiêu biểu là các trận đánh bảo vệ chiến khu Vần, chiến khu Hiền Lương và chiến khu Trần Hưng Đạo. Tại các đô thị, các phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi nổi khắp ba miền.

Việt Minh thực hiện khởi nghĩa chống Nhật từng phần, mở rộng căn cứ địa, làm tiền đề tiến lên tổng khởi nghĩa (Cách mạng tháng tám). Phong trào đã giải phóng được nhiều vùng rộng lớn từ tay Nhật, hình thành nhiều vùng giải phóng, trong đó có Khu Giải phóng Việt Bắc - bao gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, và một số vùng ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái.

Để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật, Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Hội nghị họp từ ngày 15 đến 20/4/1945 tại huyện Hưng Hóa (Bắc Giang), do ông Trường Chinh chủ trì. Tham dự Hội nghị có đại diện từ nhiều chiến khu khác nhau, do xứ ủy Bắc Kỳ lãnh đạo, như chiến khu Quỳnh Lưu (Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu).

Hội nghị này quyết định phát triển lực lượng vũ trang và bán vũ trang, thống nhất các tổ chức vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân, xây dựng 7 chiến khu chống Nhật trong cả nước: Chiến khu Lê Lợi, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc, Phan Đình Phùng (miền Trung) và Nguyễn Tri Phương (miền Nam).

Hội nghị cử ra Ủy ban quân sự cách mạng gồm Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Ủy ban này chỉ huy các chiến khu ở miền Bắc Việt Nam, đồng thời có nhiệm vụ lãnh đạo và hỗ trợ toàn quốc về quân sự. Đến tháng 5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định về chiến khu Hoàng Hoa Thám và chọn Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) làm đại bản doanh chỉ đạo phong trào chống Nhật trên cả nước.

Ngoài các chiến khu do Tổng bộ Việt Minh ở trung ương và Xứ ủy ở địa phương chủ trương thành lập, nhiều tỉnh, huyện cũng xây dựng những khu căn cứ riêng của địa phương để chống quân đội Nhật, như Yên Thế (Bắc Giang), Lập Trạch (Vĩnh Yên), Bãi Sậy (Hưng Yên), Trầm Lộng (Hà Đông), Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Tam Kỳ, Quốc Sơn, Tiên Phước (Quảng Nam), Đá Trắng, Sông Quao (Ninh Thuận).

Khi phát xít Nhật đầu hàng phe Đồng Minh giữa năm 1945, thì trong những vùng tạm chiếm ở Việt Nam một khoảng trống quyền lực (chính quyền bù nhìn của Nhật chỉ có cái tên, không có quyền lực), Việt Nam có cơ hội lớn giành lại độc lập. Cơ hội này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh và Việt Minh tận dụng.

Noi gương, rút kinh nghiệm và tiếp nối những thành quả của cao trào kháng Nhật và khởi nghĩa Ba Tơ, cũng như tất cả cuộc chiến đấu chống Pháp - Nhật trước đó, ngày 19 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám, vận động nhân dân xuống đường giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, bắt đầu từ Tổng khởi nghĩa Hà Nội rồi dần lan rộng ra khắp miền Bắc, miền Trung, miền Nam và cả nước.

Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để ra mắt người dân và chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ mời một số người đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do Người soạn thảo. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước nhân dân, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam chính thức phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm ngoại thuộc.

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc tập trung tổ chức cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 14 ngày 8 tháng 9 năm 1945 và sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 10 năm 1945 về tổ chức Tổng tuyển cử.

Quốc hội khóa I được bầu ngày 6 tháng 1 năm 1946 trên cả nước, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 89%. Đây cũng là cuộc bầu cử thể hiện rõ nhất lòng dân. Tại những vùng tạm chiếm ở miền Nam (do Pháp theo chân Anh vào giải giáp Nhật rồi ở lại không đi), nơi chiến sự vẫn còn xảy ra ác liệt, lá phiếu bỏ hòm có khi phải đổi bằng máu. Có 42 cán bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị chết trong công tác vận động bầu cử, trong đó có cả lãnh đạo khu Sài Gòn - Chợ Lớn là Nguyễn Văn Tư. Quân Pháp ở những vùng tạm chiếm (Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An) tấn công người đi bầu cử. Máy bay Pháp ném bom khu vực bầu cử ở Mỹ Tho, Khánh Hòa.

Theo sắc lệnh số 34-SL ngày 20 tháng 9 năm 1945, Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập. Bản dự án Hiến pháp đã được soạn thảo và công bố vào tháng 11 năm 1946. Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3 năm 1946. Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo hiến pháp.

Trong phiên họp ngày 29 tháng 10 năm 1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo hiến pháp và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Bản hiến pháp được Quốc hội Việt Nam khóa I thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu. Từ đó, Quốc hội Việt Nam đã hoạt động liên tục một cách hợp hiến, hợp pháp cho đến ngày nay.

Các văn bản, văn kiện có giá trị pháp lý sau đó như: Sắc lệnh 229/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh quy định các cơ quan quân sự trên toàn cõi Việt Nam (bao gồm miền Nam Việt Nam) đều trực thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tháng 11/1946, tuyên cáo 12 khu hành chính của VNDCCH (trên cả nước) cũng vào tháng 11/1946. Tất cả những văn kiện pháp lý đó đều minh định một nguyên tắc cơ bản: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, theo luật pháp Việt Nam, là một nước độc lập và thống nhất từ Bắc chí Nam.

Đoạn trên phải trình bày khá dài và đầy đủ như vậy là để cho thấy tính chính danh và hợp pháp rõ ràng và không thể tranh cãi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ trước năm 1945, trước kháng chiến chống Pháp, và còn để cho bạn đọc thấy rõ sự ấu trĩ của luận.điệu "Hồ Chí Minh và CSVN cướp quyền từ tay chính quyền Trần Trọng Kim" mà chúng ta đôi khi thấy ở những người cực đoan hoặc thiếu thông tin.

Hiến pháp 1959 cũng nhắc lại những nguyên tắc trên. Như vậy, bất kỳ thế lực bên ngoài nào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam và tạo ra những "quốc gia" lên trên một quốc gia đã tồn tại hàng ngàn năm, dựng lên những "nhà nước" lên trên một Nhà nước đã thành lập từ năm 1945, lập ra những "quốc hội" lên trên Quốc hội khóa I đã tổ chức bầu cử toàn quốc từ năm 1946 thì đều là vi phạm luật pháp Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.

Tóm lại, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì Việt Minh và quân đội Việt Nam đã tiến hành chống quân phiệt Nhật, kết quả cuối cùng là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng tám giành chính quyền, giành thực quyền từ tay người Nhật về tay người Việt Nam, quân đội Việt Nam tước vũ khí, giải giáp một bộ phận quân đội Nhật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, khôi phục nền độc lập của Việt Nam sau gần 100 năm Pháp thuộc và bị phát xít Nhật xâm lược, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước khi các quân đội nước ngoài tiến vào với danh nghĩa giải giáp Nhật.

Việt Nam thành lập Nhà nước, tổ chức bầu cử Quốc hội trên cả nước, hoàn thành Hiến pháp, thành lập Chính phủ, khẳng định chủ quyền độc lập và thống nhất toàn quốc trong thời gian 1945-1946, trong lúc ngụy quyền "Quốc gia Việt Nam" và "Việt Nam Cộng hòa" của Pháp - Mỹ không tồn tại, và đến năm 1949 mới được thực dân Pháp dựng lên trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tái chiếm thuộc địa.

Như vậy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hồ Chí Minh có cơ sở lịch sử và các chứng cứ, văn kiện pháp lý cho thấy tính hợp pháp, danh chính ngôn thuận của mình. Và hành động của Mỹ xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở miền Nam, phá hoại việc thực thi hiệp định Genève 1954 để thống nhất Việt Nam, thu nhận và sử dụng ngụy quyền mà Pháp đã sử dụng và để lại, thực hiện chia cắt Việt Nam, rồi lần lượt đưa hơn 60 vạn quân Mỹ và chư hầu vào mở rộng chiến tranh xâm lược, xua quân tấn công những vùng giải phóng, dội bom phá hoại, gây các tội ác v.v. đều là những hành động vi phạm luật pháp Việt Nam.

Những bằng chứng lịch sử đó đã tồn tại trong lúc trên đất Việt không tồn tại bất kỳ 1 quốc gia, nhà nước, chính thể nào khác, và cả sau này cũng không có một "quốc gia" nào khác được bầu ra theo một thể thức như vậy, mà mang tính toàn quốc, và đậm ý chí toàn dân đến như vậy.

I.2B. Luật pháp Hoa Kỳ


Có lẽ Hoa Kỳ coi các chính quyền bù nhìn ở miền Nam Việt Nam như là một loại tay sai rẻ tiền nên đã không ký bất kỳ văn kiện nào về việc thiết lập căn cứ quân sự, đóng quân ở nước sở tại, ví dụ hiệp định Phòng thủ chung, hay thỏa ước về Trạng thái đóng quân (SOFA - Status of forces agreement), hay hợp đồng cho thuê lãnh thổ, mà Mỹ đã ký với các nước khác nơi họ đóng quân, theo thông lệ quốc tế.

Tất cả danh nghĩa pháp lý mà Mỹ biện minh cho các hành động quân sự ở Việt Nam là Nghị quyết Đông Nam Á, Luật 88-408 (tên thông dụng là Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ), một nghị quyết được Lưỡng viện Mỹ thông qua ngày 7/8/1964 vì bị lừa dối bởi các báo cáo bịa đặt của tổng thống và chính phủ, sau khi chính phủ Mỹ công bố cái gọi là "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" 3 ngày trước đó.

Ngày 2/8/1964, hải quân và không quân Mỹ xâm phạm vịnh Bắc Bộ và tấn công bắn hư 3 tàu chiến của Việt Nam, gây thương vong cho 10 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Ngày 4/8/1964, người Mỹ tưởng tượng ra một cuộc tấn công trả đũa của Hải quân Nhân dân Việt Nam, rồi công bố nó như là một dữ kiện có thật. Sau đó tổng thống Lyndon Johnson và chính phủ Mỹ đã gọi "trận hải chiến" hư cấu này là "Gulf of Tonkin incident" (Sự kiện Vịnh Bắc Bộ).

"Sự kiện" này sau đó đã trở thành danh nghĩa chiến tranh của đế quốc Mỹ, trở thành lời biện hộ cho cuộc chiến của giới diều hâu Mỹ, và thuyết phục được Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á, tạo cơ sở pháp lý theo luật pháp Hoa Kỳ để leo thang chiến tranh xâm lược, đổ quân vào Việt Nam cứu nguy hệ thống thuộc địa kiểu mới đang rạn nứt, lung lay và trên đà sụp đổ.

Đây là cơ sở để tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tiến hành chiến tranh phá hoại tại miền Bắc Việt Nam và leo thang chiến tranh, bắt đầu chuyển đổi chiến lược từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam.

Vụ lừa dối về "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" được chính người Mỹ lần lượt làm rõ theo các mốc thời gian sau đây:

Năm 1981, nhà báo Robert Scheer kiểm tra, đối chiếu lại nhật ký hàng hải của thuyền trưởng Herrick trên tàu chiến USS Maddox DD-731 với báo cáo ngày 4 tháng 8 của ông về một vụ "đột kích rõ ràng" của hải quân Việt Nam, thì phát hiện ra trong nhật ký hàng hải của con tàu vốn không có ghi lại sự kiện đó.
Tàu chiến USS Maddox DD-731 của hải quân Hoa Kỳ.

Năm 2001, chính phủ Mỹ đã bạch hóa một cuốn băng ghi âm, trong đó tổng thống Lyndon B. Johnson khi nói chuyện riêng với các cộng sự vào năm 1965 đã gián tiếp thừa nhận không có tàu chiến Việt Nam nào xuất hiện gần hải quân Mỹ trong ngày 4/8/1964. Johnson nói đùa: "Theo tất cả những gì tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn vào cá voi ở đó."

Trong phim tài liệu Mỹ The Fog of War (Khói lửa chiến tranh) năm 2003, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thừa nhận "cuộc tấn công của Bắc Việt" trong ngày 4 tháng 8 năm 1964 là chưa bao giờ xảy ra.

Các giải mật khác sau này, trong đó có một báo cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ/Cục An ninh Trung ương (National Security Agency/Central Security Service - NSA/CSS) khẳng định cuộc tấn công đêm 4/8/1964 là không có thật.

Tháng 10 cùng năm, Thời báo New York (New York Times) đã cho biết ông Robert J. Hanyok, chuyên viên sử học của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA), đã kết luận rằng cơ quan này đã từng cố tình bóp méo các báo cáo tình báo với ngành lập pháp (quốc hội) về sự kiện Vịnh Bắc Bộ.

Tháng 1 năm 2008, Hiệp hội các Nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) cho biết NSA đã giải mật bản báo cáo Spartans in Darkness (Người Xpác-tơ trong Bóng tối), trong đó khẳng định Hải quân Nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Hoa Kỳ trong đêm 4 tháng 8 năm 1964.

Ngày 14/7/2010, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ và Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), chủ tịch Ủy ban, đã công bố 1.165 trang hồ sơ được giải mật về cuộc chiến Mỹ - Việt. Tài liệu cho thấy, một số thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thời đó đã phản đối hoặc thắc mắc về việc họ bị vô hiệu hóa, bị thông tin sai lệch từ chính phủ về sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Hồ sơ được giải mật là bản ghi các cuộc điều trần và các cuộc họp trong hai năm 1967-1968, do chuyên gia sử học của Thượng viện Hoa Kỳ là D. Ritchie ghi lại.

Trong một phiên họp khác, thượng nghị sĩ Al Gore (cựu phó Tổng thống, ứng cử viên Tổng thống) cảnh báo: "Nếu đất nước này bị lừa dối, nếu Ủy ban này, Quốc hội này cùng bị lừa dối vì bị người ta dựng lên một sự kiện không có thật để tiến hành một cuộc chiến tranh làm hàng ngàn thanh niên bị chết vô nghĩa, và còn nhiều ngàn người nữa bị tàn tật suốt đời, thì đất nước đó đã mất đi uy tín, đạo đức, vị thế trên thế giới, và hậu quả sẽ rất nặng nề".

Tất cả các bằng chứng, các hồ sơ được giải mật đó đã cho thấy rằng về luật pháp Hoa Kỳ, thì cuộc chiến vốn đã xuất phát từ một cơ sở dối trá, ngay từ trước khi Mỹ đổ đại quân vào Việt Nam. Sự dối trá này cộng với nhiều báo cáo dối trá khác đã bộc lộ sau chiến dịch Mậu Thân đã làm cho giáo sư tiến sĩ sử học Mỹ Larry Berman phải nói: Toàn bộ cuộc chiến này dựa trên cơ sở của một lời dối trá.

Như vậy, các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 1965-1973, là vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, lừa dối Quốc hội, và sử dụng quân đội Mỹ ở Việt Nam một cách bất hợp pháp theo luật pháp của chính Hoa Kỳ. Có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam mới bị nhân dân Mỹ chống đối với mức độ cao như thế, nhất là trong giới trí thức, luật gia.

Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam tại Mỹ có tầm vóc quy mô và có sức lan tỏa hơn hẳn so với các cuộc chiến khác của Mỹ. Nhiều người Mỹ mơ hồ nhận ra đây là một cuộc chiến có gì đó mờ ám, bất hợp pháp, không minh bạch ngay từ đầu, dù lúc đó các hồ sơ về sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa được đưa ra ánh sáng. Nếu không có sự nghi ngờ và áp lực từ một bộ phận đại biểu trong Quốc hội Mỹ thì có lẽ "cuộc tấn công" tưởng tượng ngày 4/8/1964 đã không bị phát hiện và vạch trần.

I.2C. Luật pháp quốc tế


Sau kháng chiến chống Pháp, hiệp định Genève về Đông Dương cũng chỉ công nhận giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tạm chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho quân đội hai phía Việt - Pháp tập kết chứ không nói gì đến vấn đề thay đổi lãnh thổ.

Theo hiệp định này, vĩ tuyến 17 không phải là làn ranh có ý nghĩa về lãnh thổ hay chính trị. Hiệp nghị này không có ý nghĩa chia đôi đất nước về lãnh thổ và chính trị. Bản thân hiệp định Genève 1954 không hề chia cắt đất nước thành hai quốc gia. Đây không phải là hiệp định chia cắt đất nước như một số người thiếu thông tin đã nhầm lẫn, mà là hiệp định lập lại hòa bình, độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương, Pháp rút quân trong 2 năm và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956.

Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần "Thỏa hiệp" và phần "Tuyên bố Cuối cùng" (Final Declaration).

Phần "Thỏa hiệp", gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil, Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng quốc phòng VNDCCH. Phần này có những điều khoản chính như sau:
  • Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (Provisional Military Demarcation Line) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính bản xứ ở dưới vĩ tuyến 17.
  • Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.

Bản "Tuyên bố cuối cùng" gồm 13 đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của 3 nước Đông Dương, trong đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng:

Đoạn (6) (Paragraph (6)) nguyên văn như sau:

"Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam".

Và phần đầu của đoạn (7) nguyên văn như sau:

"Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu kín." (sẽ tổ chức bầu cử vào tháng 7, 1956).
Tổng kết nội dung cơ bản của Hiệp ước Genève về Đông Dương:

  • Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam - Campuchia - Lào.
  • Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
  • Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.
  • 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
  • 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam.
Nhưng không có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được, Mỹ đã từ hậu trường nhảy ra sân khấu, xuyên tạc nội dung hiệp định và phá hoại việc thi hành hiệp định. Ém nhẹm, xuyên tạc những nội dung chính của hiệp định với người dân, phá hoại các điều khoản chính trong hiệp định, và nghiêm trọng nhất là điều khoản: "Đường ranh giới quân sự là tạm thời và không thể diễn giải bất cứ bằng cách nào đó là một biên giới phân định về chính trị hay đất đai".

Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp lý, bất lợi cho việc xâm lược và chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng chính họ cũng đã "nói hớ" và vô tình cho thấy rằng hiệp định Genève 1954 không hề là hiệp định chia đôi Việt Nam.

Nhà sử học, chính trị học George McTurnan Kahin và John W. Lewis trong sách The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam), do Delta Books xuất bản năm 1967, đã cho biết: "Trong bản Tuyên ngôn đơn phương (Unilateral Declaration) của Hoa Kỳ về Hội nghị Genève không có chữ nào nói đến "Bắc Việt Nam" hay "Nam Việt Nam". Tất cả những gì mà bên đại diện Mỹ nói đến là một Việt Nam".

Những bằng chứng ở trên đã cho thấy hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước, mà ngược lại chính là quy định việc thống nhất đất nước. Chính sự can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam của Mỹ đã đưa đến sự chia đôi đất nước. Việc không có tổng tuyển cử và chia cắt Việt Nam là một sản phẩm của Mỹ. Còn danh từ "Nam Việt Nam" chỉ là một danh từ mang tính chất tuyên truyền giả dối mà người Mỹ dùng để gọi những chính quyền con đẻ của họ ở miền Nam Việt Nam.

Trong thời kỳ này, 1 Ủy ban quốc tế và hơn 20 Ủy ban quốc gia điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã được thành lập. Họ đã cử nhiều đoàn sang Việt Nam điều tra tội ác chiến tranh xâm lược và mở nhiều tòa án quốc tế xét xử những tội ác chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, nhóm họp nhiều lần ở Thụy Điển, Đan Mạch, Pháp....

Ngày 15/11/1966, theo đề xuất của nhà sử học, toán học, logic học, xã hội học nổi tiếng người Anh, triết gia, Huân tước Bertrand Russell (lúc này đã 94 tuổi), toà án quốc tế xét xử tội ác của Mỹ ở Đông Dương đã được thành lập tại London, Anh.

Bertrand Russell là một nhà hoạt động vì hòa bình thế giới, có uy tín cao trên trường quốc tế. Tháng 7 năm 1964, ông dẫn đầu một đoàn đại biểu các tầng lớp nhân dân Anh và quốc tế đến sứ quán của Mỹ tại London phản đối chính sách xâm lược của Mỹ đối với Việt Nam. Uy tín của ông đã thu hút được nhiều nhân vật tên tuổi khác trên thế giới tham gia.

Ngay sau khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, ném bom miền Bắc, Bertrand Russell đã gởi điện đến chủ tịch Hồ Chí Minh lên án hành động chiến tranh của Mỹ. Ngày 10/8/1964, Bác đã gởi điện cảm ơn, trong đó nêu rõ: "Chúng tôi luôn thiết tha với hòa bình và chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương pháp hoà bình. Tôi cảm ơn cụ đã quan tâm đến tình hình nghiêm trọng do Mỹ gây ra trên đất nước chúng tôi và xin gởi cụ lời chào kính trọng".

Sau đó một Tòa án quốc tế mang tên ông được thành lập để xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ và đã tiến hành hai phiên xét xử, lần thứ nhất từ 2 đến 13/5/1967 tại Stockholm (thủ đô của Thụy Điển) và lần thứ hai từ 20/11 đến 1/12/1967 tại Copenhaguen (thủ đô của Đan Mạch) đã gây tiếng vang, thu hút đông đảo giới trí thức, luật sư.

Sau phiên xét xử đầu tiên, Bác Hồ gởi điện tới Huân tước Bertrand Russell khẳng định: "Sự nghiệp cao cả mà cụ đã đề xướng ra nay bước đầu được thực hiện... Đó là một sự kiện quốc tế rất quan trọng... Nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới đều mong đợi sự thành công của Toà án quốc tế".

Cũng nhân dịp này, Bác còn gởi điện tới triết gia nổi tiếng người Pháp Jean Paul Satre là đồng chủ tịch Tòa án Quốc tế này và bày tỏ niềm tin tưởng: "Chắc chắn các dân tộc và tất cả những người yêu chuộng hòa bình và công lý sẽ sát cánh với các vị, nhiệt tình ủng hộ các vị".

Tòa án Quốc tế Bertrand Russell đã cử 4 đoàn, với nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau, từ các quốc gia khác nhau, đến Việt Nam điều tra trực tiếp, thu thập tài liệu, dữ liệu, hồ sơ, bằng chứng, hỏi chuyện các nhân chứng, sau đó đã họp 2 phiên để xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ.

Phiên họp thứ nhất tại thủ đô Stockholm, Thụy Điển, từ ngày 2 đến 15/5/1967. Tòa kết luận: Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác xâm lược chống nước Việt Nam, các chính phủ Australia, New Zealand, Hàn Quốc là đồng lõa.

Phiên họp thứ hai tại thủ đô Copenhaguen, Đan Mạch, từ ngày 20/11 đến 1/12/1967. Tòa kết luận: Mỹ đã dùng các loại vũ khí tàn bạo nhất để tàn sát trẻ em, phụ nữ và dân thường Việt Nam. Đồng thời, Mỹ đã tiến hành xâm phạm Lào và có dã tâm xâm lược Campuchia. Đây là lần đầu tiên cuộc chiến tranh xâm lược cũng như tội ác mà người Mỹ gây ra ở Việt Nam đã bị tòa án quốc tế bao gồm một tập thể đông đảo các luật gia, sử gia, các nhà bác học, nhà báo danh tiếng đến từ nhiều quốc gia, kể cả nước Mỹ lên án một cách toàn diện và có hệ thống, gây ảnh hưởng lớn đối với dư luận toàn thế giới. Sau này Bác Hồ đã nhận xét: "Sự lên án đó có tầm quan trọng quốc tế về mặt bảo vệ công lý và quyền tự quyết của các dân tộc".
Triết gia Bertrand Russell thời trai trẻ (1916)


Nói chung, sự tiến hành cuộc chiến này của Mỹ không phù hợp với các thông lệ quốc tế, và đi ngược lại các quy định của hiến chương Liên Hiệp Quốc về quyền dân tộc tự quyết, về sự tôn trọng độc lập chủ quyền và thống nhất của các quốc gia, cũng như các quy định liên quan đến tội ác chiến tranh và quyền con người.

Các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam không được sự ủng hộ, đồng ý của Liên Hiệp Quốc và thậm chí không được sự đồng tình của các đồng minh lâu năm, trong đó có các đồng minh cùng phe trong khối SEATO và NATO.

Tại phiên họp thứ 20 của Liên Hiệp Quốc (1965), đại diện của nhiều nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã yêu cầu Mỹ chấm dứt cuộc chiến của họ tại Việt Nam. Trong phiên họp thứ 22 của Liên Hiệp Quốc (1967), trong số 110 quốc gia thì chỉ có các đại diện của 7 quốc gia ủng hộ chính sách của Washington tại Việt Nam. Đại diện của 44 quốc gia, trong đó có 5 đại biểu các đồng minh của Mỹ trong khối NATO, kêu gọi Hoa Kỳ tìm cách chấm dứt chiến tranh và dừng ngay chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam.

Richard A. Falk, một giáo sư danh tiếng về môn Luật pháp Quốc tế của Đại học Princeton (Mỹ), người đã có hơn 40 tác phẩm hàn lâm về môn học này, đã phải thừa nhận: "Nếu chính phủ Hoa Kỳ tuân thủ luật pháp quốc tế, thì trải nghiệm khủng khiếp từ cuộc Chiến tranh Việt Nam đã không xảy ra."

Chính vì những lẽ nêu trên mà phong trào ủng hộ Việt Nam trên thế giới diễn ra sôi nổi và rộng lớn chưa từng thấy trong lịch sử phong trào quần chúng tự phát trên thế giới.

I.3. Bản chất một thuộc địa kiểu mới

Thuộc địa (colony), theo nghĩa rộng, là một vùng lãnh thổ nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, bất kể mẫu quốc có công khai tuyên bố chủ quyền đối với các thuộc địa này hay không, dù chính thức hay phi chính thức.

Trong hệ thống thực dân cổ điển, mẫu quốc là nước tuyên bố chủ quyền đối với những thuộc địa này. Thuộc địa bị áp đặt chế độ nô lệ, nhân dân thuộc địa bị nô dịch, bóc lột nặng nề và công khai.

Trong hệ thống thực dân kiểu mới, nước thực dân không tuyên bố chủ quyền thuộc địa mà sử dụng, kiểm soát, điều khiển, hưởng lợi tại nơi đó như một thuộc địa. Cấu trúc xã hội, chính quyền và kinh tế của vùng lãnh thổ đó bị quốc gia thực dân áp đặt.

Sự khác nhau giữa chủ nghĩa thực dân cũ (colonialism) và mới (neocolonialism) chủ yếu nằm ở hình thức xâm lược, cai trị và mức độ can thiệp, ảnh hưởng. Thực dân cũ duy trì hình thức thuộc địa một cách chính thức, tuyên bố công khai rằng đây là thuộc địa của tôi.

Thực dân mới thì tuyên bố rằng các thuộc địa là một "quốc gia độc lập", và đó là cái "độc lập" hình thức bên ngoài, còn trên thực tế thì chính quyền sở tại không có bao nhiêu quyền hạn hay khả năng tự chủ, tự quyết. Nói chung, đó là một hình thái giả độc lập. Có nhãn hiệu, không có thực chất. Có quốc hiệu, không có thực quyền.

Thực dân mới không đem quân "công thành chiếm đất" sát nhập ngay đất đai lãnh thổ như thời phong kiến. Họ cũng không trực tiếp đô hộ thông qua việc thiết lập hệ thống thuộc địa, và rồi cướp bóc lộ liễu mọi nguồn tài nguyên và nhân lực của thuộc địa đem làm giàu cho mẫu quốc.

Thực dân mới tuyên bố "công nhận nền độc lập" và "tự do dân chủ" của một thuộc địa có tên trên bản đồ thế giới như là một quốc gia chính thức. Và nếu cần, họ sẽ vận động, thúc ép các đồng minh, chiến hữu, đàn em công nhận và thiết lập các hình thức ngoại giao với cái gọi là "quốc gia" đó.

Khái niệm về hệ thống thuộc địa kiểu mới trước đó đã được nhiều trí thức, học giả nghiên cứu. Còn thuật ngữ "chủ nghĩa thực dân mới" (neocolonialism) lần đầu tiên được sử dụng bởi Kofi Ankomah, tổng thống đầu tiên của nước Ghana độc lập, và sau đó đã được thẩm định, nghiên cứu, phân tích bởi các nhà chính trị học, ngôn ngữ học và triết học của thế kỷ 20, trong đó có những người có tên tuổi lớn trên thế giới như Jean-Paul Sartre và Noam Chomsky.
Kwame Nkrumah, chiến sĩ cách mạng chống chủ nghĩa thực dân,
từng là nạn nhân và có kinh nghiệm xương máu với chủ nghĩa thực dân,
ông là tổng thống đầu tiên của Ghana.
Ảnh trên tem thư Liên Xô (1989).
Jean-Paul Sartre, triết gia và nhà hoạt động chính trị người Pháp, đặc biệt có uy tín cao về triết học hiện sinh.
Noam Chomsky, nhà khoa học, logic học, sử học và hoạt động xã hội người Mỹ, đặc biệt có uy tín cao về ngôn ngữ học. Ba ông là 3 nhân vật có tên tuổi lớn và uy tín cao trên thế giới, là 3 người tiêu biểu trong những người tiên phong đầu tiên nghiên cứu và góp phần đưa khái niệm chủ nghĩa thực dân mới lên thành một khái niệm chính thống trong chính trị học quốc tế.


Xét tổng quan ở tầm vĩ mô, thì hình thái xâm lược trong lịch sử thế giới diễn ra chủ yếu bằng 3 hình thức: Thời cổ đại và trung đại là xâm lược công thành chiếm đất, thôn tính, cướp nước rõ ràng, sát nhập nước bị thôn tính vào nước đi thôn tính. Thời cận đại là xâm lược kiểu thực dân nguyên thủy, không chính thức cướp nước bằng cách sát nhập nước này vào nước kia, sát nhập đất đai, nhưng chiếm đóng và dùng chế độ toàn quyền thuộc địa để đô hộ nơi đó, và công khai gọi nơi đó là một "thuộc địa" (colony).

Thời hiện đại chủ yếu là xâm lược kiểu thực dân mới, không chính thức sử dụng chế độ thuộc địa, không công khai gọi nơi đó là một "thuộc địa", thậm chí ngụy quyền bản xứ được dựng lên ở nơi đó có thể có một ít thực quyền nào đó do chủ nhân ban phát. Nói chung, thực dân cũ là trực tiếp vào làm, trực tiếp quản lý và tham chiến. Thực dân mới là đứng ngoài xem các "CEO" và "giám đốc" làm có tốt không, và trong trường hợp đặc biệt cần thiết nào đó thì ông chủ mới phải trực tiếp hành động.

Đó là nhìn sơ lược về lịch sử thế giới. Còn nếu nhìn lại cụ thể hơn vào lịch sử Việt Nam, thì chúng ta vẫn thấy sự tương đồng. Mỗi thời kỳ lịch sử giặc xâm lược đều có những hình thức xâm lược khác nhau, và càng về sau thì càng được ngụy trang tinh vi hơn.

Phong kiến Trung Hoa xâm lược Đại Việt, chiếm đất đai, sát nhập lãnh thổ Đại Việt vào Trung Hoa, biến đất Việt thành một phần của đất Tàu, biến Đại Việt thành một châu quận của họ. Và trong thời gian đô hộ thì không tồn tại triều đình người Việt, không có bộ máy hành chính người Việt, An Nam Đô Hộ Phủ do người Hán cai quản có tất cả quyền hành.

Thực dân Pháp chiếm hữu và trục lợi ở Đông Dương như một thuộc địa, nhưng trên danh nghĩa vẫn có vương quốc An Nam, vẫn có triều đình Huế với các “hoàng đế” có ngai vàng nhưng không có nhiều quyền hành. Họ trực tiếp quản lý Việt - Miên - Lào bằng Toàn quyền Đông Dương, và dưới trướng có rất nhiều cộng sự người Việt. Bộ máy hành chính người Việt được thành lập. Họ thiết lập một hệ thống ngụy quyền địa phương quy mô, rộng lớn, bao gồm những lực lượng ngụy binh (cụ thể: Lính Nam triều, lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng, Quân đoàn Bộ binh Bắc Kỳ, lính Lê Dương gốc Việt, Quân đội Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này).

Pháp không cần sát nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cướp đất đai trên danh nghĩa, thay vào đó, họ mị dân bằng những tuyên bố "bảo hộ" (bảo vệ) cho vương quốc An Nam. Họ cho người Pháp vào trực tiếp quản lý, trực tiếp nắm lấy. Và các cộng sự người Việt chỉ là loại thừa hành cấp thấp hoặc địa phương. Bộ máy trung ương do người Pháp quản lý.

Mỹ viện trợ và giúp đỡ Pháp tái chiếm Việt Nam thất bại, sau đó tiến thẳng vào và từng bước thay chân Pháp, thu nhận và nuôi dưỡng ngụy quyền và ngụy quân mà Pháp đã sử dụng và để lại. Thay tên đổi họ lại cho ngụy quân và ngụy quyền, thay đổi một vài tay sai. Mỹ cai trị miền Nam Việt Nam theo kiểu thực dân biến tướng: Người chủ đứng ngoài giám thị, kiểm soát. Còn phần quản lý trực tiếp là thuộc trách nhiệm của ngụy quyền bản xứ, từ địa phương đến trung ương. Giặc không trực tiếp bắt tay vào làm, quân đội chính quốc không cần trực tiếp ra tay như thực dân cũ.

Về cơ bản, nó là một sự thống trị thực dân mới. Nhưng trong giai đoạn 1965-1973, do hệ thống thuộc địa kiểu mới của Mỹ bị lung lay (chủ yếu từ sự bất lực của ngụy quyền bản xứ), nên Mỹ dù không muốn vẫn đành phải đem đại quân vào trực tiếp kiểm soát, quản lý, chỉ huy và chiến đấu, hoạch định các kế hoạch, chiến lược, chiến thuật, chiến dịch quân sự, trực tiếp tiến hành chiến tranh để cứu nguy hệ thống thuộc địa kiểu mới sắp sụp đổ. Do đó, những vùng tạm chiếm ở miền Nam giai đoạn 1965-1973 còn có những đặc điểm của một thuộc địa kiểu cũ.

Sự cai trị thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam về cơ bản là khác hình thức cai trị thực dân kiểu cổ điển và dễ ngụy trang hơn, chủ yếu sử dụng ngụy quyền để kiểm soát miền Nam Việt Nam. Kiểm soát được khu vực địa chính trị, địa kinh tế quan trọng, kiểm soát vị trí chiến lược quan trọng này đưa đến tác dụng khống chế bán đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, một khu vực chiến lược trọng yếu, nằm trong chiến lược quốc tế và khu vực của chính phủ Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ hoạt động quân sự và tiến hành chiến tranh ở Việt Nam dựa trên danh nghĩa pháp lý Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ và dưới chiêu bài "tham chiến giúp đồng minh". Họ không công khai gọi miền Nam Việt Nam là một thuộc địa và không chính thức sát nhập miền Nam Việt Nam vào lãnh thổ Hoa Kỳ.

Như vậy lịch sử đã cho thấy khá rõ ràng cách thức xâm lược của giặc ngoại xâm theo tiến trình lịch sử Việt Nam và thế giới, theo sự phát triển của văn minh nhân loại, đã có sự thay đổi và "nâng cấp" theo thời gian, càng lúc càng mị dân và được ngụy trang kỹ hơn.

Trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam là một xã hội thực dân mới với đầy người Mỹ trong nhà ngoài phố, hầu như đi đâu cũng thấy họ. Khoảng 6 triệu người Mỹ, trong đó có gần 60 vạn quân Mỹ hoành hành tại đây một cách vô pháp vô thiên, quân đội Mỹ hoạt động ở Việt Nam chỉ tuân thủ luật nhà binh Mỹ, họ đã gây ra tội ác khắp nơi, trong đó chỉ một phần rất nhỏ là bị đem ra tòa án binh Mỹ xử qua loa chiếu lệ.

Nhu cầu "làm hài lòng người Mỹ" dần trở nên một loại "văn hóa" xã hội, một lề thói xã hội, lối sống, phong cách sinh hoạt, vì mục đích sinh tồn và tiến thân. Văn hóa tiến thân trong xã hội bị Pháp - Mỹ làm thay đổi. Làm sở Tây, sở Mỹ, được qua Tây, qua Mỹ, trở thành giấc mơ, ước vọng của nhiều người. Được ông Tây, ông Mỹ xách theo qua nước họ trở thành hy vọng, ước mơ của bao cô gái.

Cả xã hội trong những vùng bị chiếm là sống bám vào Mỹ, "ăn nhờ ở đậu" người Mỹ ngay trên quê hương nhà. Những công trình xây dựng cũng do người Mỹ xây hoặc bỏ tiền ra xây. Một xã hội hoàn toàn phụ thuộc Mỹ. Một xã hội không thể tự nuôi thân. Thực trạng này cũng tương tự xã hội Đông Dương trước đó, cả xã hội phải sống dựa vào Tây, sống nhờ vào tiền Tây, không thể tự nuôi chính mình.

Về kinh tế thì không có một nền kinh tế đúng nghĩa, mà đó là một nền kinh tế thuộc địa, một "nền kinh tế" ăn bám và phụ thuộc toàn diện vào Pháp - Mỹ, từ viện trợ cho đến vấn đề cung cầu, tiêu dùng. Về dịch vụ mua bán, quân nhân Mỹ có đặc quyền sử dụng "đô la đỏ", giấy bạc màu đỏ do họ in ra và có thể dùng để giao dịch với người Việt trong vùng họ chiếm, và người Việt phải nhận loại tiền "không giống ai" này. Chỉ có quân nhân Mỹ mới có đặc quyền này. Đó là một nền kinh tế nam thì bán mạng, nữ thì bán thân.

Ts. James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng Nhà nước VNCH, 1954-1968), do NXB Đại học Cambridge (Anh) ấn hành năm 2008, đã ghi rõ: "Chính thể Sài Gòn không thể nuôi chính mình; thậm chí không thu đủ lợi tức cho hoạt động hàng ngày. Họ phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ."

I.4. Bản chất và nguồn gốc của chính quyền Sài Gòn


Cái gọi là "Quốc gia Việt Nam", "Việt Nam Cộng hòa" dưới thời Pháp - Mỹ về chính trị thì nghị gật, không có bao nhiêu thực quyền và không có quyền quyết định sau cùng, đặc biệt về các vấn đề chiến lược chính trị.

Về quân sự cũng tương tự, các viên chỉ huy Mỹ có mặt ở tận cấp tiểu đoàn, ngụy quyền và ngụy quân không có vai trò hoạch định chiến lược quân sự, và chiến thuật quân sự vẫn phải hỏi ý Mỹ trước để được thông qua. Về tác chiến, ngụy quân không thể chiến đấu hiệu quả khi vắng sự chiến đấu trực tiếp của quân Mỹ. Họ gần như không thể chiến đấu giống như quân đội chuyên nghiệp đúng nghĩa khi thiếu hỏa lực Mỹ, không yểm Mỹ.

Đến ngày 14/3/1975 thì người Mỹ đã chạy gần hết, Nguyễn Văn Thiệu khi một mình quyết định thì bao nhiêu "trình độ" lộ hết ra ngay. Thiệu thay vì chọn một đường an toàn để rút khỏi Kontum và Pleiku, để bảo toàn lực lượng, đưa quân về cố thủ các địa bàn khác ở đồng bằng, thì ông ta lại chọn đường số 7 là con đường xấu nhất, khó đi nhất, vì cho rằng con đường đó "có yếu tố bất ngờ".

Ông ta ngây ngô nghĩ rằng chọn con đường khó đi nhất thì Việt Cộng sẽ không ngờ tới. Nhưng bất ngờ cho ai? Người "bị bất ngờ" thì đuổi đánh thừa thắng xông lên. Kẻ "gây bất ngờ" lại bỏ chạy vô nguyên tắc, chạy loạn không chút kỷ cương nào, sau đó tan rã toàn quân, binh lính ngụy phải ném bỏ quân phục và vũ khí chạy thoát thân.

Đến triệt thoái mà quân đội Sài Gòn còn không biết thực hiện đúng cách, không biết chọn đúng đường, thì họ có thể làm gì? Rút lui là một kỹ năng cơ bản của quân đội mà vẫn không biết cách lui quân có quy củ như các quân đội chuyên nghiệp. Tính chất "tài tử", hàng kiểng, nghiệp dư, ô hợp của họ đã phơi bày trước quốc tế khi các đợt "di tản chiến thuật" trở thành thảm họa.

Nhóm vũ trang vô dụng, đầy lính kiểng với thành phần tạp nham, đa phần bị bắt lính hoặc nhập ngũ vì sinh kế chứ không có lý tưởng, vì không có lý tưởng nên dễ khiếp nhược, sợ chết, không có tinh thần chiến đấu. Với những đặc điểm đó liệu bản chất nhóm vũ trang gọi là "Quân đội Quốc gia Việt Nam", "Quân lực Việt Nam Cộng hòa" này có phải là một quân đội đúng nghĩa hay không, hay thực chất chỉ là những băng nhóm quân phiệt vũ trang, hay thậm chí là băng cướp có tổ chức, hay theo định nghĩa ngày nay là băng nhóm khủng bố ly khai? Một quân đội đúng nghĩa không nhất thiết chỉ là một đám người khoác áo lính vào, được cung cấp súng đạn.

Năm 1955, Mỹ chọn "thủ tướng" Ngô Đình Diệm của chính phủ "Quốc gia Việt Nam" tay sai Pháp, đưa lên làm làm "tổng thống", với tên mới là "Việt Nam Cộng hòa". Như vậy, "Quốc gia Việt Nam" và "Việt Nam Cộng hòa" không có gì khác nhau ngoài tên gọi và vài người đứng đầu. Và người đứng đầu đó cũng chính là "thủ tướng" của chính quyền tay sai Pháp.

Ngoài cái tên ra thì chẳng có gì khác nhau đáng kể giữa "Việt Nam Cộng hòa" của Mỹ và "chính phủ Quốc gia" ("Quốc gia Việt Nam") của Pháp. Chủ yếu vẫn là nhân sự đó ngoài vài điều chỉnh nhỏ. Vẫn lá cờ ba sọc với bài "quốc ca" "vay mượn".

Như vậy, "VNCH" là tuy là tay sai bù nhìn của Mỹ, phục vụ cho Mỹ, nhưng đầu tiên do thực dân Pháp dựng lên năm 1949 trong lúc họ đang xâm lược Việt Nam nhằm chiếm lại thuộc địa.

Đến năm 1955, Mỹ sử dụng lấy chính quyền tay sai của Pháp rồi chỉ là đổi hai nhãn hiệu "Quốc gia Việt Nam" thành "Việt Nam Cộng hòa", "Quân đội Quốc gia Việt Nam" thành "Quân lực Việt Nam Cộng hòa", và thay người đứng đầu: Loại bỏ Bảo Đại, đưa thủ tướng của chính quyền tay sai Pháp là Ngô Đình Diệm lên thay Bảo Đại.

Như vậy chính quyền bù nhìn của Pháp và của Mỹ về cơ bản chính là 1. Không có gì khác nhau giữa "Quốc gia Việt Nam" và "Việt Nam Cộng hòa" ngoài cái tên và vài kẻ đứng đầu. Mỹ đổi tên và đổi người đứng đầu là để dẹp bớt tai tiếng tay sai Pháp của thành phần này, vì ký ức 100 năm bị giặc Tây nô dịch đã quá in sâu trong tim óc nhân dân và tai tiếng trong dư luận.

Do đó, muốn đánh giá xem "Việt Nam Cộng hòa" là gì, có bản chất như thế nào, thì cần xem "Quốc gia Việt Nam" là gì.

Bảo Đại là kẻ đứng đầu "Quốc gia Việt Nam", và chúng ta hãy đọc xem Bác Hồ nói gì về Bảo Đại và cộng sự trong lúc nhân vật này đang đứng đầu "Quốc gia Việt Nam" thuộc Liên hiệp Pháp. Lưu ý đây là Bác trả lời không phải với tư cách cá nhân, mà là với tư cách chính trị, với tư cách là một vị chủ tịch, một lãnh tụ, một nguyên thủ quốc gia, nghĩa là đã thận trọng nhất, đã cân nhắc nhất, và mang tính chính thức.

Khi trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo (Trung Hoa Dân Quốc) ngày 3/4/1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời câu hỏi như sau:

Hỏi: Chính phủ Pháp nói Bảo Đại sẽ đưa lại hoà bình ở Việt Nam. Xin Chủ tịch cho biết ý kiến về điều đó.

Trả lời: Vĩnh Thụy trở về với 10.000 viễn binh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thuỵ cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.


Hồ Chủ tịch trả lời phỏng vấn của A.Steele, phóng viên báo Mỹ New York Herald Tribune (13-10-1949):
Hỏi: Chủ tịch đối với ông Bảo Đại thế nào?
Đáp: Về phương diện tư nhân, tôi với ông Vĩnh Thụy không có thù hiềm gì hết. Nhưng về phương diện dân tộc, Vĩnh Thụy là một người có tội phản quốc.
Hỏi: Có thể có một cách giải quyết nào có Bảo Đại tham dự không?
Trả lời: Chúng tôi không cần gì đến bọn bù nhìn.
Hỏi: Những phần tử nào ủng hộ Bảo Đại?
Trả lời: Bọn bù nhìn và bọn phản quốc.


Hồ Chủ tịch trả lời phỏng vấn báo Pháp France Soir (28/2/1949):
Hỏi: Theo ý Chủ tịch, giữa Chính phủ của Chủ tịch với Bảo Đại có thể có thoả ước hay không?

Trả lời: Trong một nước, làm gì có thoả ước giữa một tư nhân công dân với Chính phủ do toàn dân cử ra.

oOo

Trong chiến tranh Việt - Pháp (1945-1954) thì năm 1949 thực dân Pháp đã tạo ra "chính phủ Quốc gia" và đưa Bảo Đại lên đứng đầu, nằm trong giải pháp (Da) vàng hóa chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, theo công thức viện trợ Mỹ - viễn chinh Pháp - quân bản xứ.
Binh lính Pháp-ngụy tại cứ điểm Điện Biên Phủ
Sĩ quan Pháp gắn huy chương cho lính ngụy trong chiến dịch Điện Biên Phủ


Pháp dựng lên "Quốc gia Việt Nam" qua "hiệp định Elysée", đưa Bảo Đại lên làm bù nhìn. Cao ủy Pháp thay Toàn quyền Đông Dương, một loại An Nam Đô Hộ Phủ mới. Thực dân Pháp nắm tất cả các quyền về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, tài chính.... "Quân đội Quốc gia" xây dựng dần từ năm 1948 từ những con cháu lính khố xanh, khố đỏ của Pháp và triều Nguyễn, Binh đoàn Bộ binh Bắc Kỳ và lính Lê Dương người Việt. Quân đội "Quốc gia" do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Quân sự, tài chính, thuế quan, xuất nhập cảnh.... và các cơ quan chức năng đều do người Pháp quản lý. Kinh tế, nguồn cung tài chính và ngụy quân đều do Pháp trực tiếp quản lý.

Và trong cái "hiệp định" độc lập giả hiệu mà Pháp soạn rồi đưa cho Bảo Đại ký hoàn toàn không có quy định rõ ràng, cụ thể nào về nghĩa của chữ "độc lập" ghi trên giấy, dù thực dân Pháp tuyên bố đã "trao trả độc lập" cho Việt Nam, rằng quân đội Pháp chỉ "giúp bảo vệ" mà thôi. Quyền hạn cụ thể của "chính phủ Quốc gia" cũng không hề được đề cập trong "hiệp định". "Hiệp định" này cũng không nói rõ việc thành lập một "nước" mới này có thể ảnh hưởng gì đến cuộc chiến Pháp - Việt hiện đang diễn ra ác liệt.

Hồ chủ tịch nhiều lần nói chuyện, trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế với tư cách một nguyên thủ quốc gia cũng đã bác bỏ thẳng thừng cái gọi là "hiệp định" này, và coi là tờ giấy lộn. Khi trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo (Trung Hoa Dân Quốc) ngày 3/4/1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời nhiều câu hỏi, trong đó có câu như sau:

Hỏi: Xin Chủ tịch cho biết ý kiến về bản ký kết 8/3 vừa ký giữa Pháp và Bảo Đại?

Trả lời: Đối với dân Việt Nam, đó chỉ là một tờ giấy lộn. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai. Ngay nhân dân Pháp và dư luận thế giới cũng đã hiểu rõ và tố cáo điều đó. Lúc nào quân đội thực dân Pháp hoàn toàn rút khỏi đất nước Việt Nam, thì mới có thống nhất và độc lập.

"Quốc gia Việt Nam" là nơi hội tụ của những tên tay sai tàn ác nhất, và đã phục vụ cho giặc Pháp nhiều đời. Con cháu của lính khố xanh, khố đỏ của Pháp. Cha của Ngô Đình Diệm chính là quan thượng thư Ngô Đình Khả, kẻ làm việc dưới trướng Việt gian Nguyễn Thân, một tên tay sai đắc lực và tàn ác của thực dân Pháp. Khả đi theo Nguyễn Thân đàn áp nghĩa quân rất tàn ác, vô nhân đạo, nhất là trong cuộc đàn áp nghĩa quân Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo, Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả đã cho đào mộ cụ Phan lên rồi đốt thi thể, trộn tro với thuốc súng cho nổ để hả giận rồi thả trôi sông. Tội ác dã man đó còn là để đe dọa, khủng bố tinh thần nghĩa quân và nhân dân.

Hầu như tất cả thành viên trong đại gia đình họ Ngô đều phục vụ đắc lực dưới trướng người Pháp, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm làm quan cho Pháp đàn áp nghĩa quân và Việt Minh rất tàn bạo, dùng những hình thức tra tấn nhục hình, tra khảo, lấy khẩu cung rất dã man. Sau lần đàn áp khủng bố nghĩa quân Hương Khê thì Ngô Đình Khả còn theo phò tá Nguyễn Thân đi đàn áp nhiều lực lượng nghĩa quân chống Pháp khác. Sau này Ngô Đình Thục đã khoe khoang, báo công "công lao", "công trạng" này của cha trong lá thơ gởi cho quan toàn quyền Đông Dương Jean Decoux. Do đó dân gian miền Nam thời Mỹ-Diệm hay gọi đây là gia đình "Tam đại Việt gian". Ngô Đình Diệm sau này là thủ tướng của chính phủ "Quốc gia Việt Nam" tay sai Pháp.

Ngô Đình Diệm đã có quãng thời gian 12 năm làm quan cho Tây (1921-1933), dưới 2 đời ngụy triều Khải Định và Bảo Đại dưới thời Pháp thuộc. Đến năm 1933, do bất mãn với Pháp và Bảo Đại, bị lạnh nhạt, không tin dùng, gia tộc họ Ngô phục vụ nhiều đời cho Pháp và triều đình, bản thân phục vụ 12 năm, vậy mà chỉ được phong làm Thượng Thư Bộ Lại, trong khi quan thượng thư đứng đầu nội các không phải là Ngô Đình Diệm mà là Thượng Thư Bộ Quốc gia Giáo dục Phạm Quỳnh. Vì vậy, Ngô Đình Diệm bất mãn từ quan. Mâu thuẫn giữa ông Diệm với Pháp và Bảo Đại bắt nguồn từ đó. Ông ta thất chí, bất mãn từ chức và từ đó chuyển sang hướng chống đối người Pháp và triều đình. Nhưng rồi về sau lại làm "thủ tướng" cho Pháp-Bảo Đại trong chiến tranh Việt - Pháp.

Sau đó ông ta công khai theo người Mỹ. Sự đổi chủ liên tục này cho thấy rằng có lẽ gia đình họ Ngô không muốn đặt lợi ích gia tộc và tôn giáo (Công giáo) dưới lợi ích của các ông chủ. Họ là tay sai, nhưng không phải là những tay sai quá trung thành, ngoan ngoãn, dễ bảo như Bảo Đại hay Nguyễn Văn Thiệu. Đó là một phần nguyên cớ sau này người Mỹ giật dây đảo chính để thay đổi tay sai.

Ngụy quyền Sài Gòn còn là bọn tay sai tàn ác, gây rất nhiều tội ác với nhân dân, chứ không phải là ngụy quyền bù nhìn kiểu ngây ngô chính trị, bị lợi dụng nhưng không gây tội ác, như "Đế quốc Việt Nam" (chính quyền Trần Trọng Kim).

Như vậy chính quyền Sài Gòn là một ngụy quyền, quân đội Sài Gòn là ngụy quân, là những kẻ do Pháp dựng lên và sau đó được Mỹ nuôi tiếp. Còn cơ cấu nhân sự, hệ thống của nó thì không có nhiều thay đổi. Nó là tay sai của Pháp, do bọn thực dân đô hộ Việt Nam trăm năm dựng lên. Như vậy, tay sai của Mỹ cũng chính là tay sai cũ của Pháp.

Nói chung, ngụy quyền Sài Gòn do quân xâm lược chế tạo ra để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của họ. Và ngụy quyền cờ ba sọc chính là như vậy. Bọn họ do Pháp dựng lên trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, trong cuộc chiến giữa Việt Nam và Pháp.

Hiến pháp 1959, chương I điều VII còn ghi rõ: "Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc."

Như vậy, ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn về bản chất còn là một nhóm phản quốc có tổ chức, vi phạm hiến pháp 1959 về tội phản bội Tổ quốc. Theo luật này thì những thành phần này đã phạm tội chống Nhà nước, một Nhà nước Việt Nam do bầu cử toàn quốc mà có. Họ theo giặc xâm lược, chống lại sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Họ phạm tội phản quốc còn là vì họ đã phục vụ cho quân xâm lược Pháp - Mỹ, chống lại quê hương đất nước, giết hại tàn sát đồng bào hoạt động chống xâm lược, chống sự nghiệp độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Nếu 2 ông chủ của các ngụy quyền trong vùng tạm chiếm của miền Nam Việt Nam là ai đó tầm thường mà không phải là siêu cường giàu mạnh Pháp - Mỹ, vận động, thúc ép, áp lực, thỏa hiệp cho các đồng minh và đàn em công nhận và thiết lập ngoại giao với "quốc gia" này thì cái "quốc gia" này sẽ không được báo chí truyền thông cánh hữu gọi ưu ái là "Nam Việt Nam", mà sẽ gọi họ theo đúng định nghĩa thông dụng trong thế kỷ 21: Một tổ chức khủng bố.

Còn theo đạo lý và pháp lý Việt Nam, theo đạo lý dân tộc và luật pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đây là những tổ chức phản động "tư nhân", tổ chức phản quốc, bán nước, tay sai bù nhìn của giặc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức trả lời nhiều lần với nhiều báo chí trong và ngoài nước.
Quân xâm lược dù chiến đấu dưới chiêu bài "bảo vệ đồng minh", nhưng thực tế chiến cuộc cho thấy họ luôn đẩy "đồng minh" đó ra những nơi nguy hiểm nhất, sử dụng "đồng minh" như một loại bia đỡ đạn.
Và khi cần di tản thì người Mỹ ưu tiên chạy trước.

Trong cả hai cuộc chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn trao đổi, bày tỏ phản đối, muốn giải quyết vấn đề gì, muốn đề xuất việc gì thì tìm Pháp - Mỹ nói chuyện, những người có thực quyền. Trong hội nghị Paris về Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ đàm phán với Mỹ và chưa bao giờ đàm phán, nói chuyện với bên bù nhìn của Mỹ.

Trong hội nghị Paris về Việt Nam, việc chấp nhận cho Nguyễn Văn Thiệu tham gia tranh cử để thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần ở miền Nam cùng với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (lực lượng thứ ba) là một sự nhượng bộ lớn về pháp lý và đạo lý chỉ vì đại cuộc.

Như vậy ngay cả hiệp định Paris 1973 cũng chỉ coi chính quyền Sài Gòn như là một thành phần chính trị gần ngang bằng với Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, như một phe phái được phép tham gia tranh cử với chính phủ cách mạng lâm thời và lực lượng thứ ba.

Tuy nhiên, sau đó Mỹ-Thiệu đã đơn phương xua quân tấn công những vùng giải phóng và vi phạm gần như tất cả điều khoản trong hiệp định Paris 1973, vậy thì quyền tranh cử của Nguyễn Văn Thiệu cũng không còn nữa. Một ít tư cách pháp nhân, danh nghĩa chính trị của ngụy quyền Sài Gòn theo hiệp định Paris 1973 cũng đã không còn hiệu lực.

Mỹ sau khi đã thành công đưa đại quân khỏi Việt Nam một cách an toàn thì đã cùng Thiệu đơn phương bác bỏ việc tổ chức bầu cử theo hiệp định Paris 1973, và kể từ lúc đó ngụy quyền Sài Gòn càng phơi bày rõ hơn bản chất là một cánh tay nối dài của giặc xâm lược và không còn được coi là gần ngang hàng với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Chính vì vậy, trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, khi ngụy quyền Sài Gòn loay hoay có đến 3 "tổng thống" để xin được thương lượng với Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhưng đã bị bác bỏ, vì trước đó ngụy quyền Sài Gòn đã từ chối thương lượng, tranh cử công bằng với Cộng hòa miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris 1973 mà Mỹ và họ đã ký vào. Họ đã vi phạm hiệp định nên bây giờ họ không còn tư cách đối thoại, không còn tư cách pháp nhân, vì hiệp định này đã không còn hiệu lực, không còn giá trị nữa.

Ngụy quyền này do thực dân Pháp dựng lên ngay giữa một cuộc chiến tranh xâm lược, trong lúc đã tồn tại Nhà nước do dân bầu ra, nó không thể tự nuôi thân, quân xâm lược buông ra là chết, do đó nó là bất hợp pháp, không chính danh. Do đó, nó bị gọi là "ngụy" (giả) để phân biệt với các quốc gia, nhà nước, chính thể chân chính, chính danh, hợp pháp.

"Ngụy" là một từ gốc chữ Hán, có nguồn gốc từ 2 chữ "Ngụy" trong Hán-Việt: Một là tính từ "ngụy" (偽), có nghĩa là giả, không thật. Ví dụ: Ngụy quân tử (một kẻ giả làm người quân tử), ngụy trang (giả trang), ngụy biện (lý lẽ giả trá), ngụy tạo (giả tạo).... Hai là danh từ "Ngụy" (魏), dùng để chỉ nước Ngụy thời Chiến Quốc bên Trung Quốc, nhà Ngụy thời Tam Quốc bên Trung Quốc, hay họ Ngụy tại Đông Á, trong đó có Việt Nam.

"Quốc gia Việt Nam" và "VNCH" là ngụy là vì ở miền Nam thực tế không có quốc gia nào cả chỉ là một vùng địa lý bao gồm vùng giải phóng của Việt Nam và các căn cứ quân sự lớn, các khu vực thuộc địa kiểu mới của Mỹ trong vùng tạm chiếm, là nơi sinh hoạt của khoảng 6 triệu người Mỹ và gần 60 vạn quân Mỹ. Nhưng họ mạo xưng là một "quốc gia".
Vùng biển đặc quyền của người Mỹ. Đa số người dân bị cấm bén mảng đến đây, trừ gái mại dâm và một số người bán hàng rong.

Mặc dù Mỹ vận động, kêu gọi, mua chuộc, áp lực các đồng minh, đàn em công nhận và thiết lập ngoại giao với ngụy quyền này, nhưng dư luận quốc tế, các trí thức quốc tế đã nhận thức rõ đây chỉ là một "nhà nước hư cấu" (fictive state).

Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng Nhà nước VNCH, 1954-1968), do NXB Đại học Cambridge (Anh) xuất bản năm 2008, đã ghi rõ như thế này: "Chính thể Sài Gòn không thể tự nuôi nổi chính mình; thậm chí không thu đủ lợi tức cho hoạt động hàng ngày. Họ phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ." và "Từ trước đó, giới chức đã thôi nói về xây dựng quốc gia, cải cách điền địa, dân chủ, minh bạch. Thay vào đó, họ bàn về một cuộc chiến phải thắng trước những kẻ thù của nhà nước hư cấu 'Nam Việt Nam' (fictive state). Quỹ đạo này của chính sách Mỹ khiến người ta gần như không thể nói thật về những thành công, thất bại, đặc biệt là với các nhà hoạch định chính sách. Chưa bao giờ Hoa Kỳ đạt tới điểm khi chính thể Sài Gòn có thể tự mình tồn tại mà không nhờ viện trợ Mỹ."

Như vậy cái gọi là "quốc gia" này không phải là một quốc gia đúng nghĩa, chưa bao giờ hội đủ các đặc điểm, thực lực, giá trị, căn cước của một quốc gia thật sự, của một nước có đầy đủ chủ quyền, có đủ thực quyền độc lập về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.

Vậy thì "quốc gia" đó là đồ giả, mà "giả" thì gọi văn vẻ là "ngụy". Vì vậy gọi bọn họ là "ngụy" chính là một cách gọi trung thực, trung lập, khách quan, và chính xác nhất, không còn từ nào khác mô tả chuẩn hơn, đúng hơn. Không còn từ nào khác trong tiếng Việt mà mô tả cô đọng đầy đủ hơn, đúng nghĩa hơn bản chất của đối tượng đó.

Dù trung lập thì vẫn nên gọi chính xác bản chất đối tượng. Không thể "trung lập" theo kiểu một người nói "trái đất hình tròn", người kia bảo "trái đất hình chữ nhật", hai người cãi nhau, ta vào can rồi bảo "trái đất hình vuông", thì đó không phải trung lập mà là nói sai sự thật.

Cả dân gian và giới nghiên cứu học thuật gọi ngụy quyền là "ngụy" là xuất phát từ tinh thần tôn trọng sự thật, tôn trọng thực tế lịch sử khách quan, chứ không hẳn là vì ghét họ nên gọi họ là "ngụy" cho hả giận. Đã là một nhà nước hư cấu (fictive state), thì làm sao có thể gọi là một "quốc gia"? Thế nhưng họ mạo xưng như vậy thì đích thị là đồ giả (ngụy) theo pháp lý Việt Nam, cũng như trong lòng dân và đạo lý dân tộc Việt Nam.

I.5. Các nhân vật phía bên kia hé lộ bản chất cuộc chiến


Rất nhiều chóp bu ngụy, trong đó có cả "tổng thống", "phó tổng thống", "thủ tướng", tướng tá sĩ quan ngụy đã chủ động thừa nhận hoặc lỡ lời hé lộ bản chất bù nhìn của chế độ mình. Trong đó có những người sau này đã không còn chống đối nữa (Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Đỗ Mậu, Trần Chung Ngọc....) và cả những người chống cả đời hoặc vẫn đang chống đối (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Đôn, Đặng Văn Nhâm, Cao Văn Viên, Trần Viết Đại Hưng....). Sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

Trong giai đoạn đấu tranh giằng co với Việt Nam trong hội nghị Paris, khi "tổng thống" Nguyễn Văn Thiệu xin cho mình khỏi phải ký tên vào Hiệp định Paris 1973 vì ông ta nói rằng đây là hiệp định "bán đứng miền Nam cho cộng sản", thì có một lần tổng thống Mỹ Richard Nixon đã nói với Kissinger: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được".

Và sau đó Thiệu vẫn phải nhịn nhục ký vào hiệp định và ông ta thừa biết dù không ký thì ông ta vẫn sẽ bị gạt ra và hiệp định vẫn sẽ được thông qua, thậm chí ông ta có thể bị gì đó, gương Ngô Đình Diệm sờ sờ trước mắt.

Theo Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chế độ Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong cuốn “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” (The Palace File) xuất bản năm 1986 thì trong thời điểm đó Mỹ đã nhiều lần gởi thơ yêu cầu, bắt buộc, và đe dọa (thậm chí đe dọa tính mạng) Thiệu phải ký vào hiệp định.

Theo sách "Vietnam, a History" (Việt Nam, một Lịch sử) của nhà sử học Stanley Karnow, do NXB Edition King Press xuất bản năm 1983, khi phóng viên hỏi tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tại sao lại chọn Diệm mà không phải là một nhân tuyển khác, thì Johnson đã trả lời: "Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó". Lưu ý thời điểm đó ông Diệm đã là một người trung niên.

Theo hồ sơ được giải mật năm 2010 của Lầu Năm Góc, hồ sơ The Defense Department History of United States Decision making on Vietnam (Lịch sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về những quyết định đến Việt Nam), tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã nói thời còn là Thượng nghị sĩ: "Việt Nam Cộng hòa là hòn đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á. Nó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó". Hồ sơ còn ghi nhận: "Việt Nam Cộng hòa về bản chất là một vật được Hoa Kỳ sáng tạo ra".

Trung tướng Mỹ Bernard Trainor, từng chinh chiến ở Việt Nam 2 lần, bình luận:"Nhiều người nói rằng chúng ta phải ném bom để đưa miền Bắc về lại thời kỳ đồ đá. Ở mức độ nhất định, chúng ta đã đạt được hiệu quả này, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Có ném bom nữa cũng không ăn thua gì. Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với cuộc cách mạng của Mỹ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập."

Cựu chuyên viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, chuyên gia phân tích của Lầu Năm Góc, Ts. Daniel Ellsberg trong cuốn sách "Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers" (Một tưởng nhớ về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc), do nhà xuất bản Viking ấn hành năm 2002, đã cho biết:

"Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, mà chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: Mới đầu là Pháp - Mỹ (1945-1954), sau đến toàn là Mỹ (1954-1975). Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ.

Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960, như nó đã không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến".

Sử liệu "Vietnam, the ten thousand day war", NXB Thames Methuan, London, xuất bản năm 1982 đã ghi nhận một số câu nói của "tổng thống" Nguyễn Văn Thiệu: "Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng ta nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng ta sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!", "Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống cộng".

Trong bộ phim tài liệu "Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày" (Tập đoàn Truyền thông Canada - CBC sản xuất, đạo diễn danh tiếng Micheal MacLear thực hiện vào năm 1980), phát lại một số video phỏng vấn cũ trong thời chiến, khi trả lời phỏng vấn bằng tiếng Anh, "phó tổng thống" Nguyễn Cao Kỳ đã nói: "Việt Cộng luôn đối xử với chúng tôi như là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ, nhưng rồi chính người Mỹ cũng coi chúng tôi là những con bù nhìn của Mỹ, chứ không phải các nhà lãnh đạo thật sự của người dân Việt Nam".

Ngoài ra, ông Nguyễn Cao Kỳ khi trả lời trong cuộc phỏng vấn Báo Thanh Niên, số Xuân Ất Dậu, năm 2005 cũng đã thẳng thắn thừa nhận: "Ông Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm 'kép nhất'. Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê."

Phim tài liệu "Heart & Mind" của đạo diễn Peter Davis, do đài BBC Anh quốc sản xuất năm 1974 và đoạt giải Oscar cho phim tài liệu hay nhất năm 1975, cho thấy cảnh tướng Nguyễn Khánh cho biết Nhà ngoại giao, Đại tướng Maxwell D. Taylor của Mỹ đã đích thân ra lệnh cho ông ta phải rời khỏi Việt Nam. Thậm chí, Nguyễn Khánh còn lén ghi âm lại lệnh lưu đày của Taylor.

Theo các tướng tá cũ của quân đội Sài Gòn như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu "dân biểu" Lý Quý Chung thì sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp "tổng thống" Dương Văn Minh và đề nghị kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu ngụy quyền Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch. Tướng Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương cục miền Nam thông qua em trai Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá QĐNDVN) và gia đình đã thuyết phục từ trước đã từ khước và nói: "Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc".

Ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Nguyễn Văn Thiệu, trong cuộc nói chuyện với nhà báo Trần Phong Vũ trên báo VietWeekly (Mỹ), đã cho biết: "Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi....” "Người Mỹ đã thay thế Pháp với chính sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19, người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt trong việc thiết lập một "tiền đồn chống Cộng" tại Đông Nam Á. Người Mỹ đến Việt Nam không vì quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ tán dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn…. để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chính và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ. Chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được sử dụng như lưỡi gươm Damoclès.... chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ hóa".

Tướng Đỗ Mậu (từng là "phó thủ tướng" ngụy) đã viết về Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu trong phần "Lời Mở Đầu" của hồi ký "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi", do nhà xuất bản Hương Quê xuất bản năm 1986 ở Mỹ và sau này nhà xuất bản Văn Nghệ tái bản lại cũng ở Mỹ như sau: "Người thì muốn nối dài biên giới Hoa Kỳ từ Alaska đến sông Bến Hải, người thì đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ 'chống Cộng'".

Tướng Cao Văn Viên là 1 trong 5 đại tướng trong quân đội Sài Gòn. Ông ta giữ chức Tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy lâu nhất, từ năm 1965 đến 1975. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Cao Văn Viên chạy theo người Mỹ sống luôn bên Mỹ, qua đời ở tiểu bang Virginia vào năm 2008. Trong hồi ký để lại, ông viết: "Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi!".

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cựu phụ tá Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn, là một trong số 16 nhân vật lãnh đạo chức lớn nhất trong chính quyền Sài Gòn còn ở lại khi Sài Gòn được giải phóng tháng 4 năm 1975, đã trả lời phóng viên của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010:

"Pháp đã ở Việt Nam 100 năm. Pháp đi sau Hiệp định Genève thì Mỹ lại nhảy vô.

Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay. Ở miền Nam này, đã xảy ra không biết bao nhiêu cuộc đảo chánh - mười mấy lần chứ có ít đâu.

Tụi tôi trong quân đội, học ở Mỹ, học tiếng Mỹ, đi thăm Mỹ... đủ hết. Rồi tụi tôi cũng có nhiều bạn Mỹ rất tốt bụng, nhưng với Mỹ thì tôi vẫn không có bằng lòng. Thậm chí lần đi thăm đại bản doanh Cục Tình báo Trung ương (CIA) bên đó, thấy sợ hơn là thấy thích.

Người Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao... Mỹ nắm hết. Rồi chính Mỹ đã bỏ miền Nam Việt Nam".

Trong một số bài viết về lịch sử hiện đại Việt Nam, như bài "30 tháng tư, nhìn lại cuộc chiến ở Việt Nam", "Tôi đọc bài của Phạm Cao Dương về Đại tướng Võ Nguyên Giáp", "Vài nét về Cụ Hồ".... Gs. Trần Chung Ngọc, cựu sĩ quan quân đội Sài Gòn, cựu giảng viên Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ, đã viết:

"Nhìn cuộc chiến ở Việt Nam đơn giản chỉ là cuộc chiến giữa lý tưởng 'tự do dân chủ' của 'người Việt Quốc gia' đối với lý tưởng 'độc tài sắt máu' của người Việt Cộng sản là không hiểu gì về cuộc chiến cả. Do đó kéo dài hận thù đối với Cộng sản là một hành động vô trí, bắt nguồn từ cái nhìn rất thiển cận của mình về cuộc chiến. Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc Chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. 'Người Việt Quốc gia' thường cho 'Nam Việt Nam' là 'đồng minh' trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, để chống Cộng cho họ. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, 'Nam Việt Nam' chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi 'thành phần quốc gia' là 'đồng minh' của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền".

"Đối với một thiểu số người Việt lưu vong, thì ngày 30/4/75 là ngày mà họ gọi là ngày 'mất nước' làm như miền Nam là nước của riêng họ. Tuy rằng nước vẫn còn đó, và càng ngày càng phát triển, ngày nay đã vượt trội hẳn cái 'nước' của họ khi xưa mà thực ra chỉ là cái 'nước' nằm trong sự chi phối của những đồng đô la viện trợ và sự chỉ đạo của các quan Toàn Quyền như Nolting, Lodge, Martin".

"Không phải là sau Hiệp định Genève Mỹ mới can thiệp vào Việt Nam mà Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam từ trước đã lâu. Mỹ đã đồng lõa với thực dân Pháp trong mưu toan tái lập nền đô hộ của Pháp trên dân Việt Nam. Những người thực sự tin rằng Mỹ là 'đồng minh' của 'Nam Việt Nam', muốn giúp dân Việt Nam để chống lại Cộng sản, để cho dân Việt Nam, hay ít ra là dân miền Nam, được tự do dân chủ, nên nhớ kỹ rằng chính Mỹ đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho Pháp trong cuộc chiến tiền-Genève, từ 1945 đến 1954, để Pháp tái lập nền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở lại vòng nô lệ Pháp, trong khi Mỹ đã biết rõ chế độ thực dân Pháp đối với dân Việt Nam là như thế nào. Lịch sử Việt Nam sẽ lên án hành động đế quốc thực dân này. Nếu chúng ta coi Pháp là quân xâm lăng thì Mỹ cũng là kẻ xâm lăng không kém. Chỉ sau khi Pháp thất trận Mỹ mới đưa ra chiêu bài giúp Việt Nam, bảo vệ nền tự do (sic) của Nam Việt Nam trong khi, như chúng ta đã biết, theo Hiệp định Genève về Đông Dương, Nam Việt Nam không phải là một quốc gia độc lập mà chỉ là một vùng rút quân của Pháp và những lực lượng quân sự dưới quyền Pháp, trong đó có lực lượng "Quốc gia", chờ ngày Tổng Tuyển Cử trên toàn thể đất nước vào năm 1956".

"Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào. Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một người Việt Nam, một người Việt Nam không "Quốc gia" không Cộng sản, không Nam không Bắc, một người Việt Nam không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ bỏ lịch sử khi vinh khi nhục của quốc gia, và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện với lịch sử chống xâm lăng của dân tộc. Khía cạnh tích cực nhất của ngày 30/4/75 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh đồng bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược".

Trong bài tham luận "Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975" của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, và hiện đang hoạt động chống cộng sản ở Lawndale, Mỹ, đã viết:

"Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4/1975, Nguyễn Cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân.

Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký Hiệp định Paris về Việt Nam vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào Hiệp định Paris về Việt Nam dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản. (Xin đọc kỹ cuốn sách Hồ sơ mật Dinh Độc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký)”.

"Việt Nam Cộng hòa chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm (1954-1975). Miền Nam được sự bảo trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30/4.

Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh với Việt Nam Cộng hòa mà chỉ độc đoán điều hành sắp đặt mọi việc. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống Cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống Cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu".

oOo


Và đó là những quan điểm khác nhau của nhiều tầng lớp, chức vụ khác nhau trong chính phủ, quân đội Hoa Kỳ và chính quyền, quân đội Sài Gòn, dù gián tiếp hay trực tiếp, dù lỡ miệng nói hớ hay thật thà thừa nhận, dù là quan điểm tiêu cực, phá hoại hay quan điểm tích cực, xây dựng v.v. cũng đều nói lên bản chất của ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn.

Không gì rõ ràng hơn là chính họ nói về họ, chính họ nói về nhau, quân nhân Mỹ nói về bản thân họ và "đồng minh" của họ, quân nhân ngụy nói về bản thân họ và "đồng minh" của họ. Và họ nói những điều đó cả trong cuộc chiến và sau cuộc chiến.

Các hoạt động khiêu dâm với nhiều hình thức đa dạng nhằm giúp giải tỏa căng thẳng cho binh lính Mỹ trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam.

I.6. Những trí thức bên ngoài chính phủ Mỹ nói về cuộc chiến


Không chỉ những nhân chứng bên trong chính phủ và quân đội Mỹ nói lên bản chất cuộc chiến, mà những học giả, trí thức bên ngoài cũng nói những luận điểm tương tự như họ. Sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

Trong sách Understanding Power: The Indispensable Chomsky (Nhận diện quyền lực: Chomsky và những điều không thể bỏ qua), do NXB Vintage phát hành năm 2003, nhóm tác giả Mitchell Schoeffel, Peter Schoeffel và John Schoeffel đã phỏng vấn nhà tư tưởng, nhà sử học, khoa học, triết học nổi tiếng người Mỹ Ts. Noam Chomsky, người được hàng trăm học vị danh dự từ các trường đại học trên thế giới, trong đó có những trường danh giá như Harvard (Mỹ), Cambridge (Anh), Columbia (Mỹ) v.v.. Trong cuộc nói chuyện, Chomsky đã bàn về sự "ăn ngang nói ngược" của truyền thông chính thống Mỹ (mainstream media), chính phủ Mỹ kéo quân tấn công những vùng giải phóng ở miền Nam mà lại đưa tin rằng họ đang "bảo vệ miền Nam", như sau:

"Giống như chúng ta nói "bảo vệ" miền Nam Việt Nam. Trong suốt ba mươi năm tôi đã nghiên cứu rất sát sao nhưng chưa bao giờ thấy trên các phương tiện truyền thông một cụm từ nào có ý nói rằng không phải chúng ta đang bảo vệ miền Nam Việt Nam, và rằng chúng ta đang tấn công miền Nam Việt Nam. Chúng ta tấn công miền Nam Việt Nam rõ ràng như bất cứ cuộc xâm lược nào trong lịch sử."

Trong buổi nói chuyện trước Ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện Mỹ với chủ đề "Nguồn gốc, nguyên nhân và bài học trong chiến tranh Việt Nam", được ghi lại trong biên bản của Thượng viện Hoa Kỳ, Ts. Noam Chomsky đã nói rõ:

"Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trở thành nơi ẩn nấp của những người Việt Nam từng đi theo Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của đất nước họ. Chính phủ này không có cơ sở thành trì trong nhân dân. Nó đi theo hướng bóc lột dân chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực tế nó là sự tiếp tục chế độ thuộc địa của Pháp".

Trong cuốn The Vietnam War and American Culture (Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ), Đại học Columbia xuất bản năm 1991, hai đồng tác giả John Carlos Rowe và Rick Berg đã ghi lại lời của Ts. Noam Chomsky như sau:

"Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi cuộc chiến căn bản là sai lầm thất đức ngay từ căn bản, chứ không chỉ là "một lỗi lầm".

Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 nạn nhân được cho là “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia cắt bởi Hiệp định Genève về Đông Dương mà Mỹ phá ngầm.

Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại tập trung, nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, dây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ.

Mỹ tuyên bố là đã được "mời đến", nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác: “Một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính phủ hợp pháp.” Mỹ chưa bao giờ coi những tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là khó khăn cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống miền Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương."

Giáo sư sử học Đại học Tiểu bang Sam Houston James Stuart Olson là một tác giả có tên tuổi, trong sách Historical Dictionary of the 1970s (Tự điển lịch sử của thập niên 1970), NXB Greenwood phát hành năm 1999, ông đã viết như sau: "Tuy nhiên, lực lượng hoạt động đằng sau Chiến tranh Việt Nam lại là một phong trào dân tộc mãnh liệt do Hồ Chí Minh lãnh đạo, phong trào đã đánh bại Pháp trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 và phá tan đế quốc Pháp ở Đông Dương. Người Việt đã chiến đấu 2000 năm chống ngoại xâm - trong đó có Trung Quốc, Nhật, và Pháp - và đa số người Việt coi người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của giặc ngoại xâm trên quốc gia của họ."

Nữ nhà báo Frances FitzGerald trong sách Fire in the Lake - The Vietnamese and the Americans in Vietnam (Ngọn lửa trên sông - Người Việt và người Mỹ ở Việt Nam), Back Bay Books xuất bản năm 2002, đã cho biết: "Chiến thắng của họ là chiến thắng của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất quốc gia mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ và phản bội."

Cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, Bruce O. Solheim, giáo sư sử học tại Đại học Citrus, trong sách Vietnam War Era: A Personal Journey (Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam: Một hành trình riêng), do Đại học Nebraska xuất bản năm 2008, đã cho biết: "Việt Minh có được sự ủng hộ rộng rãi của nông dân, là tầng lớp mà người Pháp chưa bao giờ thật sự lấy lòng được. Người Pháp đã chọn Bảo Đại, một hoàng đế cũ của Việt Nam, để đứng đầu một cái mà họ (người Pháp) gọi là 'Quốc gia Việt Nam', để đối trọng với nhà nước cộng sản. Nhưng chính thể con rối này đã không thuyết phục được người Việt Nam về tính chính danh của nó." và "Với tầm nhìn ngắn, chính phủ John F. Kennedy đã phê duyệt cuộc đảo chính và giết Diệm và Nhu, sự kiện này đưa đến một khoảng trống lãnh đạo ở Nam Việt Nam mà hầu như chưa bao giờ được bù đắp. Người Mỹ đã bước vào và tạo ra một chính quyền con rối lệ thuộc (Nguyễn Văn Thiệu)."

Nhà báo Erwin Knoll và William McGaffin trong sách Anything But the Truth: the Credibility Gap-How the News is Managed in Washington (Tất cả ngoài sự thật: Khoảng cách uy tín về cách quản lý thông tin ở Washington) do G. P. Putnam's Sons xuất bản năm 1968, đã nhận định: "Ngay từ phút đầu, khi Mỹ mới can thiệp vào Đông Dương, chính sách của Mỹ trước sau như một: Kiên quyết theo đuổi mục tiêu là thiết lập tại Đông Dương một 'pháo đài của thế giới tự do', nghĩa là một tiền đồn của chủ nghĩa đế quốc."

Phần 2: Con đường gian nan đến ngày toàn thắng

Các mục chính:


II.1. Tóm lược quan hệ Việt - Mỹ trước khi cuộc chiến giữa hai nước xảy ra

II.2. Giai đoạn 1954-1961

II.2A. Mỹ từng bước thay thế Pháp

II.2B. Tố Cộng - Diệt Cộng

II.2C-1. Chương trình bình định nông thôn

II.2C-2. Khu trù mật - Ấp chiến lược

II.2D. Đường Trường Sơn - Đường mòn Hồ Chí Minh

II.2E. Hệ thống địa đạo

II.2F. Khởi nghĩa Trà Bồng

II.2G. Phong trào Đồng khởi

II.2H. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập

II.3. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)

II.3A. "Thay ngựa giữa dòng"

II.4. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1965-1968)

II.4A. Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân

II.4A-1. Mặt trận Sài Gòn

II.4A-2. Mặt trận Huế

II.4A-3. Tấn công và nổi dậy đợt 2

II.4A-4. Tấn công và nổi dậy đợt 3

II.5. Các chiến dịch chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam (1965-1972)

II.5A. Chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền)

II.5B. Chiến dịch Linebacker

II.5C. Chiến dịch Linebacker II - Điện Biên Phủ trên không

II.6. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1968-1973-1975)

II.6A. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập

II.6A-1. Cuộc nổi dậy xuân Kỷ Dậu 1969

II.6A-2. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào

II.6A-3. Chiến dịch Xuân - Hè

II.6B. Mỹ rút đại quân và phá hoại hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, tổ chức bầu cử thành lập chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam

II.6C. Những cố gắng cuối cùng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1973-1975)

Trong lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm, trước khi có cuộc đụng độ lịch sử với Hoa Kỳ, dân tộc Việt Nam đã từng đứng trước 3 kẻ khổng lồ có sức mạnh vô địch, áp đảo và vô cùng tàn bạo, tưởng chừng không thể chống đỡ nổi: 10 năm chống quân đội Tần Thủy Hoàng (218 TCN-208 TCN), ba lần chống quân Mông Cổ (1257-1258, 1284-1285, 1287-1288), 96 năm chống thực dân Pháp (1858-1954).


Quân Tần cực kỳ tinh nhuệ, được xem là đội quân vô địch trong thời điểm đó. Họ gồm thâu 6 nước, thống nhất Trung Hoa, sau đó đem quân Nam tiến, lần lượt chinh phạt thành công các tộc Bách Việt, sau đó tiến đến lãnh thổ Âu Việt. Người Âu Việt dưới sự lãnh đạo của Thục Phán và Dịch Hu Tống, lui vào rừng núi tiến hành chiến tranh du kích và chống trả kiên cường. Sau 10 năm chinh chiến, tình trạng quân Tần lúc này theo sách cổ Sử Ký của Tư Mã Thiên mô tả là: "Đóng binh ở đất vô dụng. Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau." Quân Tần bị tổn thất nặng nề, sách cổ Hoài Nam Tử của Lưu An mô tả: "Thây phơi máu chảy hàng chục vạn người". Tại Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng qua đời, Tần Nhị Thế kế vị và ra lệnh bãi binh vào năm 208 TCN.


Thành Cát Tư Hãn từng gọi đội binh mã thiện chiến của mình là: "Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi." Đây là đội quân xâm lược bành trướng thế giới tàn bạo nhất trong thế kỷ 13. Quân đội này đã diệt các nước lớn như Hạ, Kim, Tống, thôn tính Trung Hoa, khuất phục Triều Tiên. Kéo quân gieo rắc ác mộng khắp thế giới, kể cả Trung Đông, châu Âu và Nga, khiến cho những nước phương Tây phải kinh hoàng. Đội quân kỵ xạ và kỹ thuật cưỡi ngựa bắn tên của kỵ binh Mông Cổ là vô địch và hầu như bất khả chiến bại. Tuy nhiên, khi hơn 70 vạn quân Mông Cổ (Lần thứ nhất: 3 vạn quân. Lần thứ hai: 20 vạn quân. Lần thứ ba: 50 vạn quân) kéo vào Đại Việt dưới sự chỉ huy của thái tử Thoát Hoan (Toghan) và các danh tướng từng gieo rắc sợ hãi cho 1/3 thế giới như Ô Mã Nhi (Omar) và Toa Đô (Suodu).... thì họ đã bị thua to dưới tay thiên tài quân sự Trần Hưng Đạo và quân dân Đại Việt.


Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha chính thức xâm lược Đại Nam. Với khoảng cách quá xa về trình độ dân trí, phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự, quân Pháp hầu như dễ dàng đánh đâu thắng đó. Năm 1886, sau khi hoàn toàn đánh bại quân chủ chiến triều Nguyễn, quân nhà Thanh và quân Cờ Đen, Pháp chính thức thiết lập ách thống trị thực dân kiểu cổ điển trên toàn cõi Việt Nam. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là xứ "bảo hộ" với triều đình Huế bù nhìn. Nam Kỳ bị xem là xứ thuộc địa chính thức thuộc chủ quyền của Pháp. Năm 1945, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Năm 1946, Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra và kết thúc sau chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết của Hiệp định Genève 1954, gần 20 vạn quân Pháp và gần 30 vạn quân ngụy đã bị thất bại trước chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, và quân dân Việt Nam, Pháp chính thức công nhận sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân suốt 96 năm của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một thuộc địa phương Đông thắng cuộc trước một đế quốc phương Tây. Sau sự kiện này, các thuộc địa khác trên thế giới, nhất là ở Á - Phi cũng noi gương đồng loạt nổi dậy.


oOo


Thế kỷ 20 nổi lên một thế lực hùng mạnh bậc nhất: Hoa Kỳ, với một thế lực chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Theo tư tưởng Vận mệnh hiển nhiên, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc bành trướng lãnh thổ mạnh mẽ trên khắp Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, bao gồm các hành động xâm lược, diệt chủng, thiết lập chế độ thuộc địa trên các đất đai mới, đến khi thuộc địa đó hội đủ điều kiện thì nhập vào liên bang Hoa Kỳ (như Hawaii, Alaska).

Đến cuối thế kỷ 19, biên giới Hoa Kỳ đã kéo dài đến Thái Bình Dương, và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Thế chiến I đã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của Mỹ. Thế chiến II đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là quốc gia đầu tiên phát triển vũ khí hạt nhân, và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Từ thời lập quốc đến năm 1924, quân đội Mỹ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến tranh xâm lược, bình định, và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình chinh phục, xâm chiếm, diệt tộc, cướp đất đai của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người.

Từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Mỹ đã bình định và dẹp tan khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng và bất công giai cấp.

Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh xâm lấn, cướp đất, xung đột quân sự biên giới.

Từ năm 1798 đến 1953, quân đội Mỹ đã chiến đấu trong hơn 10 cuộc chiến tranh ở hải ngoại, đánh đến châu Âu, châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu Á và các quần đảo ngoài biển. Bao gồm hai cuộc Chiến tranh Thế giới.

Trong số khoảng 150 cuộc chiến lớn nhỏ đó, quân đội Hoa Kỳ chưa 1 lần thua cuộc.

Cuộc đọ sức lịch sử giữa một trong những dân tộc đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược nhất với một quân đội đánh bại nhiều đối thủ nhất, bắt đầu.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài tham luận "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử" trong hội thảo khoa học "Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam" do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2005 đã gợi nhớ và nhấn mạnh lại thời khắc dầu sôi lửa bỏng này: "Dân tộc Việt Nam đứng trước một khó khăn, thử thách chưa từng thấy trong lịch sử".... và.... "Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân ta về phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự."

II.1. Tóm lược quan hệ Việt - Mỹ trước khi cuộc chiến giữa hai nước xảy ra


Năm 1787, hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, sau này là thái tử của vua Gia Long, theo Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang Pháp và đã gặp tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ là Thomas Jefferson, khi ông đang là Công sứ Toàn quyền Hoa Kỳ tại nước Pháp. Cuộc gặp gỡ này được một số nhà nghiên cứu sử học xem là cuộc tiếp xúc "chính thức" giữa triều Nguyễn và liên bang Hoa Kỳ.

Công sứ Jefferson là một người đa tài, đam mê nghiên cứu về nông nghiệp đã chủ động đến gặp hoàng tử Cảnh với mong muốn tìm được giống lúa thích hợp cho vùng Carolina trên đất Mỹ. Tuy nhiên, mong muốn của Jefferson đã không thành hiện thực khi vị hoàng tử nhỏ tuổi hồi hương.

Trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng là John Percival liên lạc với các quan địa phương xin được tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Được tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử viên ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng hiệp cùng Kinh lịch thuộc viên ở tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi, làm việc với Percival.

Nhưng thay vì gây thêm cảm tình, Percival khi nhận được thư cầu cứu của giám mục Dominique Lefebvre đang bị giam cầm, thì lập tức chiếm đoạt lấy 3 chiến thuyền và một số người làm con tin, đòi nhà chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết được, Percival sai nổ súng bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16 tháng 5, khiến tình hình thêm rắc rối.

Năm 1873, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" để cầu viện chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật) để đáp tàu sang Mỹ. Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876) lúc này chưa có nhu cầu chống Pháp, thấy không có lợi lộc gì và có lẽ sợ ảnh hưởng quan hệ với Pháp, nên không muốn tiếp kiến. Bùi Viện tiếc công đi xa nên lưu lại Mỹ 1 năm kiên nhẫn chờ gặp. Đến khi Pháp và Mỹ đụng độ trong trận chiến ở Mexico thì Grant mới hỏi đến Bùi Viện. Nhưng sau đó Mỹ - Pháp xuống thang xung đột ở Mexico, Grant viện lý do Bùi Viện không mang theo quốc thư rồi từ chối giúp đỡ. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế.

Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Sau những chuyến hải hành khổ sở với các tàu thủy lạc hậu thời đó, năm 1875, Bùi Viện lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã giảng hòa nên Ulysses Grant lại "đuổi khéo" sứ giả.

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội Những người An Nam yêu nước gởi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được trả lời.

Đầu những năm 1940, cơ quan OSS (tiền thân của CIA) của Mỹ đã giúp đỡ Việt Minh thuốc men và một số vũ khí để chống Nhật, đối tượng lúc ấy là kẻ địch của cả Mỹ và Việt Nam. Việt Minh giúp đỡ lực lượng Mỹ về tin tức tình báo và giúp cứu các lính Mỹ rồi chuyển giao cho người Mỹ.
Quân Pháp đi lại trên kinh rạch ở Cà Mau


Trong chiến tranh Pháp - Việt (1945-1954), Mỹ đã đứng sau ủng hộ Pháp chiếm lại thuộc địa. Năm 1950, Mỹ bắt đầu nhúng tay can thiệp sâu vào Việt Nam, họ viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp.

Cũng trong năm này, người dân Sài Gòn dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã biểu tình chống hai tàu chiến Mỹ là Anderson và Stickon cập bến Sài Gòn để giúp chuyên chở lính Pháp. Một đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nã súng cối vào các tàu đang nêu đậu trên sông. Hai tàu chiến Mỹ rút neo rời khỏi Sài Gòn. Đây là cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên của người dân Việt Nam.
Tàu chiến Mỹ cập cảng Sài Gòn

Quần chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình chống Pháp - Mỹ (1950)


Đến cuối chiến tranh, Mỹ đã cáng đáng 78% chi phí chiến tranh, lên đến trên 1,5 tỷ USD. Đa phần các vũ khí mà quân đội Việt Nam tịch thu được cho đến thời điểm này chính là vũ khí của Mỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Mỹ đã trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho Pháp.

Nhưng cuối cùng, công thức viện trợ Mỹ - viễn chinh Pháp - quân bản xứ đã phá sản trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp. Pháp đành phải ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Genève về Đông Dương, công nhận nền độc lập của 3 xứ Đông Dương, rút quân trong 2 năm, ấn định tổ chức tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956.
Tướng Pháp Charles Chanson mở tiệc "gắn lon" cho các sĩ quan ngụy ở một con tàu trên sông Hậu.

II.2. Giai đoạn 1954-1961

II.2A. Mỹ từng bước thay thế Pháp


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy ý đồ của Mỹ ngay từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau đại thắng Điện Biên Phủ, trong khi quân dân và cán bộ đảng viên ai nấy đều vui mừng phấn khởi thì Bác Hồ lại ưu tư và cẩn thận nhắc nhở đại ý: Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta còn phải đánh Mỹ!

Sau khi Pháp buộc phải ký hiệp định Genève 1954. Bác Hồ nói với các đồng chí đại ý: Hội nghị ký hiệp định Genève thành công, nhưng chắc chắn sẽ làm cho người Việt Nam chưa vừa ý. Người Pháp có câu "Ai trả tiền, kẻ đó là chủ". Mỹ sẽ thay thế Pháp, chúng ta phải có sự chuẩn bị để đối phó với Mỹ.

Như vậy, trong khi mọi người, kể cả các lãnh đạo cao nhất cho rằng đây là thời điểm kết thúc cuộc chiến, thì Bác Hồ lại trầm tư đề tỉnh mọi người rằng chiến tranh chỉ mới bắt đầu, đây là thời điểm bắt đầu cuộc chiến mới.

Đến tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp trước khi Hiệp định Genevè được ký kết mấy ngày, thì lúc đó Đảng và Bác Hồ đã đi tới kết luận: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương.

Từ đó, Đảng và Bác Hồ đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này như sau: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Theo đó, mối quan hệ chiến lược giữa hai miền là: Xây dựng miền Bắc để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, miền Nam đẩy mạnh đấu tranh để giải phóng bản thân và cũng để bảo vệ miền Bắc. Miền Bắc có vai trò quyết định, miền Nam có vai trò trực tiếp.

Ngày 23 tháng 7 năm 1954, nội dung văn bản hiệp định được các Đảng bộ miền Nam phổ biến cho đồng bào: Việt Nam được hội nghị quốc tế long trọng công nhận độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng trước mắt đất nước phải tạm chia thành hai vùng tập kết quân sự. Miền Bắc đến vĩ tuyến 17 được hoàn toàn độc lập. Miền Nam còn thuộc quyền quản lý của Pháp. Quân đội mỗi bên phải tập kết về vùng của mình quản lý. Sau 2 năm Pháp sẽ rút đi hết và dân Việt sẽ tổ chức tổng tuyển cử trên cả nước để thực hiện thống nhất. Trong thời gian chờ tuyển cử, cấm mọi phân biệt đối xử, trả thù những người đã tham gia phía đối lập, mỗi bên phải bảo đảm thực hành tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh.

Các công sở ngụy quyền và các sĩ quan, binh lính, tề, xã, ấp, nhân viên ngụy quyền của Pháp ở miền Nam thì vui mừng, vì họ thấy vẫn còn "giữ ghế" được, vẫn còn được an vị làm "phụ mẫu chi dân", vẫn còn các đặc quyền đặc lợi.

Trong niềm vui chung hòa bình được lập lại thì nhiều người dân miền Nam không tránh khỏi nỗi lo: Hiệp định quy định rõ ràng như vậy nhưng liệu quân giặc có chịu thực hiện không? Vì bản chất của thực dân là vẫn vậy không thay đổi, "giang sơn dễ đổi, bản tính khó thay".

Tại miền Nam, Mỹ nhận lấy chính quyền "Quốc gia Việt Nam" (État du Viêt Nam) của thực dân Pháp. Năm 1955, thay đổi người đứng đầu, đưa "thủ tướng" của "Quốc gia Việt Nam" là Ngô Đình Diệm lên thay Bảo Đại, đổi tên "Quốc gia Việt Nam" thành "Việt Nam Cộng hòa" (Republic of Vietnam), bắt đầu các chuỗi hành động hất cẳng quyền lực của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Đầu tiên là ngày 23/10/1955, Mỹ-Diệm dàn dựng cuộc "trưng cầu dân ý" gian lận. Cho cảnh sát gõ cửa từng nhà đe dọa và ép người dân đi bầu, bắt giam những người chống lại, cho dân Công giáo di cư 1954 (vốn nhiều người chống cộng và ủng hộ gia đình Diệm) đi đầu "bỏ phiếu" rồi quay phim chụp hình để quảng cáo hình ảnh Diệm với quốc tế.

Ngày 6 tháng 10, "thủ tướng Quốc gia Việt Nam" Ngô Đình Diệm tuyên bố quyết định mở cuộc "trưng cầu dân ý". Các cơ quan truyền thông do Mỹ cấp chi phí và điều khiển cũng bắt đầu những chiến dịch truyền truyền bôi bác Bảo Đại và ca ngợi "thủ tướng" Ngô Đình Diệm, với những khẩu hiệu phát đi phát lại như: "Phiếu đỏ ta bỏ vô bì - Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi".

Đó là vì có 2 lá phiếu: Một xanh, một đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu: "Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ". Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: "Tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ".

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, việc bỏ phiếu được diễn ra và trở thành trò hề vì ban tổ chức đã sắp xếp để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Ngô Đình Diệm "đắc cử" với "98,2%" số phiếu. Đại tá CIA Edward Lansdale trước đó đã bảo Diệm rằng: "Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là kế hoạch sắp đặt trước".

Đại tá Lục quân Hoa Kỳ, tiến sĩ Spencer C. Tucker trong sách Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do ABC-CLIO xuất bản năm 2000 và sử gia Stanley A. Karnow trong sách Vietnam: A history (Việt Nam: 1 lịch sử) do Penguin Books xuất bản năm 1997, đã ghi nhận cái gọi là "trưng cầu dân ý" này còn có những gian lận vụng về lộ liễu khác, như ở Sài Gòn, Diệm công bố được "605.025" phiếu trong khi khu vực này có chưa tới 450.000 cử tri ghi tên.

Sau khi hoàn thành vụ lừa đảo chính trị, Diệm công bố rằng có đến "98,2%" số phiếu ủng hộ ông ta, kết quả là Bảo Đại, tay sai trung thành của Pháp bị phế truất. Còn Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ lên đứng đầu và tự xưng là "tổng thống". "Quốc gia Việt Nam" đổi tên thành "Việt Nam Cộng hòa".

Ngày 13/1/1955, Diệm công bố chính thức trên truyền thông rằng Hoa Kỳ từ nay có toàn quyền về vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Sài Gòn. Ngày 12/2/1955, trong một cuộc họp báo, Ngô Đình Diệm công bố từ nay trở đi tướng John O'Daniel sẽ huấn luyện cho các lực lượng quân đội.

Trước mặt đại diện Hoa Kỳ, các sĩ quan người Việt tổ chức đốt tượng trưng quân hàm, quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Tổng tham mưu. Thay vào đó là những phù hiệu kiểu mới của quân đội Mỹ.

Cuối tháng 4/1956, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ gây sức ép bắt Pháp bàn giao lại phi cơ, tàu thủy, xe cơ giới, dụng cụ chiến tranh cho quân đội ngụy đang được Mỹ tổ chức và huấn luyện.

Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp của Pháp - Mỹ (TRIM) trước đây đã chuyển thành "Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân" (CATO - Combat army training organization) gồm toàn người Mỹ. Tháng 9/1955 Mỹ chỉ có 351 sĩ quan chỉ huy ở miền Nam, đến tháng 3/1956 đã lên 1.550 người. Cơ quan trung ương của CATO do tướng Samuel Viliams quản lý, gồm 170 người: 3 cấp tướng, 49 đại tá, 68 trung tá, 50 thiếu tá phân ra nắm mọi ngành. Bên cạnh mỗi bộ tư lệnh quân khu có một đại tá và một số sĩ quan. Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ có từ 3 đến 5 trung tá. "Cố vấn" Mỹ lúc này chỉ nắm cấp trung đoàn, chưa nắm cấp tiểu đoàn.

Tiếp tục lộ trình hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ bắt đầu từng bước gạt bỏ các lực lượng vũ trang thân Pháp, dùng "Quân lực Việt Nam Cộng hòa" diệt các lực lượng vũ trang giáo phái được Pháp mua chuộc, trả lương. Đồng thời cũng để làm sạch đi phần nào những vết nhơ, tai tiếng về quá khứ làm quan, làm "thủ tướng" cho thực dân Pháp của Diệm và gia đình.

Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đóng ở Rạch Tràm, thuộc xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An và huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho đã họp và nhất trí như sau: Thời gian này, nội bộ giặc đang có những diễn biến phức tạp, bọn tay sai của Pháp và của Mỹ có khả năng sẽ xung đột với nhau. Bọn theo Mỹ đã mạnh lên, hơn hẳn bọn theo Pháp. Nhưng bọn theo Pháp cũng không dễ dàng đầu hàng, vì chúng có vũ trang khá mạnh, lại chiếm cứ những vùng đông dân. Chắc chắn bọn chúng sẽ đánh nhau và điều này có lợi cho cách mạng, ta cần phải lợi dụng tình hình.

Trong khi chờ chỉ đạo của Trung ương và Xứ ủy, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ chỉ thị cho các tỉnh theo dõi chặt chẽ tình hình và cử cán bộ đi sâu tuyên truyền, vận động đồng bào theo đạo Cao Đài, Hòa Hảo, vạch trần mục đích xâm lược của Mỹ và mục tiêu trừ tôn giáo, diệt đối lập của Diệm, đồng thời cho đồng bào thấy rõ chính sách tốt đẹp của cách mạng.

Ngày 29 và 30/3/1955, Mỹ-Diệm cho một đại đội lính dù chiếm trung tâm cảnh sát, đẩy lùi quân Bình Xuyên thân Pháp của Bảy Viễn về phía Chợ Lớn. Đồng thời mua chuộc cảnh sát trưởng Lại Hữu Sang từng làm việc cho phòng nhì Pháp, và chấm dứt quyền kiểm soát của Pháp và Bình Xuyên đối với trung tâm cảnh sát.

Đối với liên minh Cao Đài, Mỹ-Diệm dùng đô la Mỹ chiêu hàng được Trịnh Minh Thế, rồi dùng ngay Trịnh Minh Thế để đánh bại Bình Xuyên, Bảy Viễn trốn sang Pháp sống lưu vong. Sau đó Mỹ-Diệm giết Trịnh Minh Thế vì cho rằng ông này "khó bảo" và "có tham vọng".

Con trai Trình Minh Thế là ông Trình Minh Sơn ở Canada khi trả lời phóng viên Thời báo Asia là Sergei Blagov, tác giả của sách Honest Mistakes: The Life and Death of Trinh Minh The 1922-1955 (Sự sai lầm nhẹ dạ: Cuộc đời và cái chết của Trịnh Minh Thế 1922-1955) do Nova Science xuất bản năm 2001, trong bài "A tale of two assassinations: Vietnam's JFK" (1 giai thoại của 2 cuộc ám sát: John F. Kennedy của Việt Nam) đăng trên Thời báo Asia (số 22/11/2003), đã cho biết cha của ông bị bắn 2 phát súng, chứ không phải 1 phát như thông tin chính thức mà giới truyền thông Mỹ và Sài Gòn đưa ra lúc bấy giờ. Ông cho biết cha ông đã bị ám sát để ngăn chặn khả năng ông ta trở thành một nhân vật nổi bật đủ sức thách thức vai trò đứng đầu của Diệm.

Đối với lực lượng Cao Đài Tây Ninh, Mỹ cũng nhanh chóng gây chia rẽ và mua được Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất. Giáo chủ Cao Đài Tây Ninh là Hộ pháp Phạm Công Tắc không chịu cộng tác với Mỹ, đã cùng bộ sậu chạy sang Campuchia lánh nạn.

Ngày 6/5/1955, Mỹ-Diệm đưa quân ngụy đi tảo thanh tàn quân Bình Xuyên ở cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, Xóm Củi (Chợ Lớn), quân Bình Xuyên thua chạy về Gò Công và rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955 thì lực lượng Bình Xuyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Riêng quân Bình Xuyên do ông Bảy Môn chỉ huy thì trước đó đã được lực lượng kháng chiến chống Mỹ thuyết phục và đã sớm rút sang Thị Vải để dựa vào cách mạng và đồng bào chống Mỹ-Diệm. Con trai của Bảy Viễn là tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên cũng tử trận trong chiến dịch này.

Một tuần sau khi quân ngụy và tàn quân Bình Xuyên đánh nhau, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ được Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ đạo: "Tìm cách duy trì lực lượng giáo phái ly khai để gây khó khăn cho Mỹ-Diệm". Ông Tư Long, Liên tỉnh ủy viên, được chỉ thị thôi làm Bí thư Tỉnh ủy Long Xuyên để về cơ quan liên tỉnh ủy, đặc trách công tác Hòa Hảo vận, ngụy vận, binh vận, chính trị vận.

Tháng 5/1955, Mỹ-Diệm bắt đầu thanh toán Hòa Hảo. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo đến thời điểm này đã có 3 nhóm độc lập với nhau là Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba Cụt) và Hai Ngoán. Ngày 20/5/1955, quân ngụy dưới sự chỉ huy của các "cố vấn" Mỹ tập trung lực lượng tổng tấn công vào cả ba nhóm Hòa Hảo.

Ngày 29/5/1955 nhóm của Hai Ngoán sớm đầu hàng. Hai nhóm Năm Lửa và Ba Cụt thất thế liền trốn vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Mỹ-Diệm. Cả Năm Lửa và Ba Cụt đều cử người bắt liên lạc với cách mạng để tìm kiếm sự ủng hộ.

Đây là thời cơ để cách mạng duy trì mâu thuẫn giữa Mỹ - Pháp, giữa chính quyền Diệm với lực lượng Năm Lửa - Ba Cụt, kéo dài sự tranh giành đối kháng giữa hai phe thế lực này. Cách mạng đã cử cán bộ trực tiếp gặp Năm Lửa, Ba Cụt và một số viên chỉ huy khác để tranh thủ vận động họ cùng chống Mỹ, kẻ xâm lược mới.

Mùng 3 Tết Bính Thân năm 1956, do bị đánh quá ráo riết, Năm Lửa đem 4.000 quân đầu hàng Mỹ-Diệm. Lực lượng Ba Cụt ở Kiên Giang với nòng cốt là trung đoàn Lê Quang vẫn cố chống giữ.

Đảng Cộng sản Việt Nam vận động nhân dân vì lợi ích cách mạng mà đóng góp tiền bạc và lương thực nuôi mấy ngàn quân Hòa Hảo. Nhờ sự giúp đỡ này và được cán bộ quân sự của cách mạng vốn già dặn kinh nghiệm sau 9 năm đánh Tây làm cố vấn, lực lượng vũ trang Hòa Hảo đã tồn tại và thắng được một số trận: Xảo Xáu (Giồng Riềng), Vườn Cỏ (Long Mỹ), Cây Bàng (An Biên).

Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị "phó tổng thống" Nguyễn Ngọc Thơ dùng tình bạn cũ lừa ra Cần Thơ để nhận chức trung tướng và bị Nguyễn Ngọc Thơ cho quân lính bắt ở Chắc Cà Đao. Đến ngày 13/7/1956 Ba Cụt bị xử chặt đầu ở Cần Thơ. Dân gian lúc đó đã ví von sự kiện này như câu chuyện Hồ Tôn Hiến lừa Từ Hải trong Truyện Kiều. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo của Ba Cụt một số ra hàng Mỹ, số lớn tan rã, số còn lại khá đông theo về với cách mạng, gia nhập các lực lượng vũ trang kháng chiến.

II.2B. Tố Cộng - Diệt Cộng


Sau khi tận diệt Bình Xuyên và các giáo phái, Mỹ lúc này đã yên tâm và không còn phải lo người Pháp quay lại tranh giành với mình. Mỹ-Diệm chuyển sang bình định những vùng tạm chiếm, đàn áp những phong trào đấu tranh chính trị đòi thi hành hiệp định Genève về Đông Dương, hành quân càn quét khắp thôn làng, đánh phá cách mạng, củng cố sự chia đôi Việt Nam.
Công nhân và nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình chống Mỹ-Diệm (1958), bất chấp mọi ngăn cấm, trấn áp.

Họ chia dân ra làm 3 loại: "Gia đình loại A" là những gia đình kháng chiến chống Pháp cũ, gia đình có người tập kết ra Bắc, những người yêu nước, muốn hòa bình, độc lập, thống nhất. Bọn ngụy gọi chung những người này là "Việt Cộng" thay cho danh từ "Việt Minh" vốn có tiếng thơm trong dân, không cần biết họ có phải là cộng sản thật hay không. Ngụy quyền bắt phải treo bảng đỏ (hoặc bảng đen, tùy địa phương) ghi chữ "cộng sản" ngay trước cửa nhà các "gia đình loại A" để đánh dấu. Những người trong gia đình loại này thường xuyên bị phân biệt đối xử, theo dõi và quản chế gắt gao, bị tra khảo đánh đập, đối xử vô nhân đạo.

"Gia đình loại B" là những gia đình có liên hệ bà con họ hàng thân thuộc với "loại A", hay có mối liên hệ nào đó với cách mạng, thì trước nhà phải treo bảng vàng "thân cộng". Những người trong gia đình loại này mỗi tháng phải làm tờ cam kết ly khai cộng sản, thường xuyên phải đi lao động khổ sai.

"Gia đình loại C" gồm những kẻ chống cộng, thù cộng sản, có những ân oán tư thù với Việt Minh, trung thành với Mỹ-Diệm, là vây cánh tay chân của Mỹ-ngụy, nên ngụy quyền có những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những gia đình loại này.

Phương châm của ngụy quyền là "dựa vào loại C, đánh vào loại A làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục".

Ngụy quyền buộc những gia đình trước đây tham gia kháng chiến chống Pháp, hay có con cháu tham gia kháng chiến phải ra trình diện nhận giấy "cán bộ hồi chánh". Họ bắt mỗi gia đình phải chụp chung một tấm hình, khai rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp treo trước cửa nhà.

Họ lập ra tổ chức "ngũ gia liên bảo", cột 5 đến 7 gia đình lại với nhau và phải chịu trách nhiệm kiểm soát, theo dõi, đề phòng lẫn nhau, không cho "cộng sản" đến ăn ở trong các gia đình này.

Khái niệm "cộng sản" cũng mơ hồ, không cần phải có thẻ Đảng, những ai ăn nói giống như cộng sản, hay thậm chí chỉ cần quan điểm giống Việt Minh, ai tán thành, đồng ý với các lập luận, quan điểm của cộng sản, thì có thể được "chụp nón cối" cộng sản. Từ đó chiếc "nón cối" cộng sản thường xuyên được tùy tiện gán cho bất kỳ ai mà những kẻ ăn trên ngồi trốc muốn hãm hại, thanh toán tư thù, cướp nhà cướp ruộng hay thậm chí là cướp vợ, cướp con gái.
Đồng bào Sài Gòn biểu tình tại chợ Bến Thành phản đối những tội ác của chế độ Mỹ-Diệm (1960)

Họ tổ chức những cuộc đấu tố cộng sản (tố cộng), bắt người này theo dõi và tố cáo người kia, kể cả các thành viên trong gia đình, bôi nhọ Bác Hồ, Đảng và Nhà nước. Trong nhiều buổi tố cộng, họ bắt nhiều người phải dẫm lên hoặc xé ảnh Bác, quốc kỳ Việt Nam, ai từ chối không làm thì bị bắn chết ngay tại chỗ để "làm gương" hoặc bắt bớ, tra tấn vô nhân đạo trong tù. Sự cực đoan, cuồng tín, quá khích đã lên đến mức cao nhất.

Tuy nhiên, giặc càng ra sức tố cộng, diệt cộng, thì đồng bào càng ra sức bảo vệ, nuôi giấu những chiến sĩ cách mạng mặc dù điều đó nguy đến tính mạng của họ và có thể liên lụy đến gia đình, người thân. "Tao có chết chỉ thiệt mình tao, mày mà chết thì thiệt cho đồng bào.", đó là lời nói thường hay nghe ở nhiều lão nông Nam Bộ.

Ngày 6/5/1959, ngụy quyền Sài Gòn mua chuộc một số báo chí tư nhân có xu hướng chống cộng cực đoan, và cho một số báo chí "tư nhân" trá hình ở Sài Gòn tuyên truyền vận động "sát cộng", và ban hành "Luật 10/59", một đạo luật quy định việc tổ chức các tòa án kiểu phát xít để xử "tội", bắt bớ, cầm tù và hành quyết (thường là chặt đầu kiểu phong kiến, nên dân gian có câu "lê máy chém khắp miền Nam" để nói về hiện tượng này) những người chống Mỹ, yêu nước, đòi thống nhất đất nước mà họ gọi là "cộng sản".

Người dân Long An biểu tình chống luật 10/59. Mỹ-Diệm càng đàn áp bắn giết thì người dân càng không sợ và càng biểu tình chống lại, bất chấp mọi nguy hiểm.


Trước đó, từ năm 1954 đến khi "luật" này có hiệu lực đến năm 1960, đã có khoảng 466 ngàn người cộng sản và cả những người không cộng sản bị bắt, trong đó có khoảng 400 ngàn người bị tù đày, và khoảng 65 ngàn người bị giết hại ở miền Nam Việt Nam.

Trong các nhân vật "hung thần" tàn ác của nhà họ Ngô thì Ngô Đình Cẩn, em trai của Diệm, là hung tàn nhất. Cẩn bị người dân miền Trung gọi là "bạo chúa miền Trung".

Các tội ác này của chính quyền họ Ngô chẳng những không răn đe được nhiều người, trái lại càng làm người dân căm phẫn và đẩy họ về phía kháng chiến. Đồng thời các tội ác đó càng làm sôi sục, nung nấu ý chí đấu tranh, tạo thêm động lực đấu tranh của các đảng viên cộng sản, thôi thúc đồng bào theo cách mạng để giải phóng miền Nam.

II.2C-1. Chương trình bình định nông thôn


Nông thôn miền Nam Việt Nam ngay từ thời tiền chiến (trước chiến tranh chống Pháp) đã luôn là căn cứ vững chắc của cách mạng Việt Nam, vì vậy nông thôn luôn là trọng điểm đánh phá của giặc. Mỹ-ngụy đã tiến hành chương trình bình định nông thôn từ năm 1955.

Chương trình do tướng John O'Daniel, trưởng Phái đoàn đào tạo huấn luyện Mỹ (TRIM) ở Sài Gòn, khởi thảo từ tháng 12/1954, sau đó, được Robert Komer, phó đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tiếp tục hoàn chỉnh dần. Được Ngô Đình Diệm chính thức công bố năm 1955.

Chương trình gồm có các mục tiêu cơ bản:

  • Tiêu diệt các lực lượng cộng sản địa phương.
  • Dùng các chương trình lợi ích công cộng để tranh thủ, lôi kéo dân, tách dân ra khỏi cộng sản.
  • Ổn định và giữ vững vị trí của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam thông qua việc củng cố vị trí của Việt Nam Cộng hòa.

Để thực hiện chương trình này, trong từng thời kỳ khác nhau, Mỹ-ngụy đã đề ra nhiều kế hoạch với những mục tiêu cụ thể, bao gồm: Kế hoạch xây dựng Khu dinh điền, Khu trù mật (1959-1961); Kế hoạch bình định nông thôn 18 tháng (Kế hoạch Staley-Taylor, tháng 7/1961 - tháng 12/1962); Kế hoạch xây dựng trại tập trung (Ấp chiến lược), hạn chế quyền tự do đi lại của dân, tách dân ra khỏi quân để "tát nước bắt cá", Ấp tân sinh (1963-1968); Kế hoạch bình định cấp tốc (1969); Kế hoạch bình định và phát triển nông thôn (1969-1970); Kế hoạch bình định và phát triển đặc biệt (1970-1971); Kế hoạch cộng đồng tự vệ, cộng đồng phát triển (1972-1975); Kế hoạch cộng đồng tái thiết, cộng đồng phát triển (1973-1974); Kế hoạch cộng đồng an ninh, cộng đồng phát triển (1974-1975).
Truyền đơn của Ban quân sự tỉnh Rạch Giá được rải ở vùng Rạch Giá, Kiên Giang

Chính quyền Sài Gòn đã lập Bộ Bình định Nông thôn với hệ thống tổ chức từ trung ương đến các xã, ấp, nòng cốt là các đoàn bình định nông thôn (đoàn 59). Ở mỗi xã có một đoàn bình định nông thôn gồm 59 người, bọn họ do CIA huấn luyện để đưa về các xã, ấp mở các chiến dịch chiến tranh tâm lý.

Năm 1967, Mỹ thành lập Cơ quan Phát triển Nông thôn và Hoạt động Dân sự (CORDS), cử Komer trực tiếp làm giám đốc để thống nhất chỉ huy các hoạt động bình định của Mỹ-ngụy.

Năm 1971, các đoàn 30 người được rút gọn thành các đoàn phát triển nông thôn 10 người (Đoàn 10) để phù hợp với nhiệm vụ mới của kế hoạch bình định phát triển đặc biệt. Chức năng chủ yếu của các Đoàn 10 là làm công tác tình báo phục vụ mục đích tiêu diệt cơ sở cách mạng miền Nam của chương trình Phượng Hoàng (Phoenix Program), ban đầu do CIA trực tiếp tiến hành sau đó bàn giao lại cho ngụy quyền.

Các Đoàn 10 hoạt động đến năm 1972, sau khi chương trình Phượng Hoàng hoạt động không hiệu quả như ý và còn bị lên án gay gắt trong dư luận thế giới về các tai tiếng tội ác (khủng bố, lạm sát bừa bãi, bắt cóc, giam cầm bất hợp pháp, tra tấn vô nhân đạo, ám sát, thủ tiêu v.v.) phải chấm dứt hoạt động. Trong những năm 1972-1975, nhiệm vụ bình định nông thôn được giao cho các xã đoàn bình định nông thôn và các tổ chức cơ sở của Ủy ban Phượng Hoàng.
Người dân miền Nam biểu tình chống chính sách "Ấp chiến lược" (1960)

II.2C-2. Khu trù mật - Ấp chiến lược


Nằm trong chương trình chung "bình định nông thôn", Mỹ-ngụy có 4 chương trình gom dân, dồn dân với bản chất giống nhau và các hình thức, mức độ, cách làm khác nhau. Đó là các chương trình Khu dinh điền, Khu trù mật, Ấp chiến lược và Ấp tân sinh, trong đó Ấp chiến lược là mang tính chất trại tập trung kiểu phát xít và gây nhiều tai tiếng nhất. Khu trù mật có tính chất mị dân hơn nhưng cũng không kém phần tai tiếng.
Ấp chiến lược nhìn từ trên không
Ấp chiến lược với hàng rào bằng tre và hào cạn cắm chông bao quanh

Khu trù mật là một khu dồn dân, gom dân, có điều kiện sinh hoạt vật chất hơn hẳn nơi cư trú cũ của nông dân. Do người Mỹ cấp chi phí lập ra năm 1959 ở một số nơi thuộc vùng đồng bằng Nam Bộ, nhằm mục đích dụ dân, xoa dịu lòng dân, và nhất là tách dân ra khỏi quân đội kháng chiến và mọi ảnh hưởng của cách mạng.

Chưa biết Khu trù mật chiêu dụ được những ai nhưng trước mắt là thấy bao nhiêu đất của dân bị cướp không, 3.000 công ruộng lúa đang trổ bông của dân bị dập nát vì xây nhà. Nhóm chỉ huy xây dựng khu trù mật tập trung lực lượng cu li lấy trong 5 huyện: Càng Long, Trà Ôn, Vũng Liêm, Tiểu Cần và Cầu Kè, mỗi đợt 20.000 người làm trong 7 ngày, xong đổi sang đợt khác. Họ cưỡng bách lao động gần như là khổ sai, bắt dân lao động nặng nề mà ăn uống thì phải tự túc. Thời gian kéo dài 20 đợt thì khu mới hình thành.

Tài liệu "Cuộc đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam 1959-1960" của đại tá Lê Hồng Lĩnh, do NXB Đà Nẵng xuất bản năm 2006 đã ước tính trong chương trình Khu trù mật người dân đã bị bóc lột khoảng 2.800.000 ngày làm không, 50 người dân chết vì lao động quá cực nhọc, ăn uống kham khổ, đau bệnh không thuốc men. Có 6 người chết rã thây tại chỗ. Ngoài ra bảo an dân vệ còn xuống càn quét, cướp của, giết người ở các ấp lân cận, quấy rối các "gia đình loại A".

Quân ngụy liên tục càn quét gom dân, bắt dân các ấp Lo Co A, Lo Co B, Trung Thiên, 9A, 9B của xã An Trường, các ấp lân cận của xã Mỹ Cẩm phải dỡ nhà vào khu trù mật. Đồng bào đã cố gắng chống lại. Nhưng với sức mạnh của gần một tiểu đoàn lính, ngụy quân đã gom được khoảng 1.500 gia đình vào đây.

Việc lập khu trù mật Lo Co tiến hành bằng cách bắt buộc người dân 5 huyện làm cu li cực nhọc không công và ngược đãi, giết người, và buộc dân phải bỏ nhà bỏ cửa đã gây sự bất mãn, oán hận của người dân.

Khi vào khu, lúc đầu giặc còn lừa mị, mua chuộc. Nhưng sau đó bản chất của chương trình này dần lộ nguyên hình khi bộ máy kìm kẹp của khu trù mật đã ráo riết hoạt động. Họ phân hóa, cô lập và quản lý từng nhà. Họ buộc người dân ai làm ruộng của địa chủ thì phải nộp tô cho địa chủ và còn phải truy nộp tô. Ai không đóng thì bị cầm tù cho đến khi nào có tiền mới thả.

Ban đêm họ cho người đi rình rập từng nhà, nghe lén nói chuyện, dò la tin tức, nghe ngóng từng người trong gia đình, xách nhiễu, bắt bớ những ai mà họ gọi là "ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng Sản". Những hành động đe dọa hàng ngày hàng giờ đó đã tạo ra một bầu không khí nặng nề khó thở và làm cho cuộc sống của người dân bị gom vào càng thêm ngột ngạt.

Để chống lại, Huyện ủy Càng Long đã bày cho nhân dân tránh né, kiếm cớ như giả đau bệnh, mắc kẹt việc nhà để từ chối lao động khổ sai. Khi bị bắt tới nơi thì có cách trốn tránh. Dân còn mang truyền đơn vào rải, vạch trần tội ác của giặc, viết khẩu hiệu phản đối sự hành hạ của giặc.

Ở bên ngoài thì người của cách mạng phát loa kêu gọi đồng bào không dỡ nhà vào khu, kể tội ác bắt dân đi làm khổ sai không cho ăn, không cấp thuốc của giặc. Một tội ác giặc gây hôm nay thì ngày mai loa phát thanh của cách mạng đã lên án tội ác đó.

Nói chung, chương trình được thực hiện thí điểm từ tháng 5/1959 ở Vị Thanh (Cần Thơ), Mỏ Cày (Bến Tre). Từ tháng 7/1959 được thực hiện rộng rãi ở miền Nam. Do cưỡng bức nông dân rời bỏ quê nhà, ruộng vườn, từ bỏ tập quán, lại đặt dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của lực lượng quân đội, mật vụ, cảnh sát, nên chương trình này bị người dân phản đối quyết liệt. Đến năm 1962, chương trình Khu trù mật được thay thế bằng chương trình Ấp chiến lược.
Hồ sơ Ấp chiến lược của ngụy quyền

Tuy nhiên, các tai tiếng của chương trình Khu trù mật không thể nào sánh bằng chương trình Ấp chiến lược (Strategic Hamlet Program). Ấp chiến lược là một trại tập trung có công trình phòng thủ bao quanh (thường gồm 3 hào sâu, 2 thành cài chông mìn, dây thép gai), tổ chức thành các "liên gia", được kiểm soát cực kỳ chặt chẽ như một cỗ máy hoàn chỉnh, có lính ngụy canh gác, ban quản trị điều hành mọi hoạt động theo một quy chế nghiêm ngặt nhằm tách du kích ra khỏi nhân dân và tách nông dân ra khỏi phong trào cách mạng, "tát nước bắt cá".

Hai giáo sư sử học Randy Roberts và James Stuart Olson trong sách Where the Domino Fell - American and Vietnam 1945-1995 (Nơi Domino rơi - Người Mỹ và Việt Nam 1945-1995) do Brandywine Press xuất bản năm 1999 đã nhận xét: "Cái gọi là chương trình Ấp chiến lược thực chất là lùa nông dân Việt Nam ra khỏi làng quê tổ tiên của họ và nhốt họ trong những khu đất rào quanh chắc chắn giống như một nhà tù hơn là các cộng đồng thật sự".

Ấp được thiết kế theo mục tiêu cô lập dân, thường có hai vòng rào. Vòng ngoài bằng dây kẽm gai, tre hoặc bụi gai. Vòng trong đắp đất, trên gắn kẽm gai. Giữa vòng ngoài và vòng trong là hào sâu khoảng hơn một mét cắm chông nhọn. Mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh có tầm nhìn xa; các cổng ra vào được canh gác cẩn mật.

Ban ngày, người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào đều đóng lại. Mọi trường hợp xâm nhập từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động điện tử. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài. Tổng cộng có khoảng 6 vạn binh lính đảm nhiệm việc canh phòng và tuần tra các Ấp chiến lược.

Chương trình được Mỹ-Diệm thực hiện từ tháng 3 năm 1962 theo kinh nghiệm xâm lược Philippines của Mỹ và có tham khảo khuôn mẫu của thực dân Anh trong cuộc đàn áp phong trào du kích ở Malaysia. Giới chóp bu ngụy quyền gọi đó là "quốc sách". Nó là xương sống của chính sách bình định nông thôn với dự án xây dựng 17 ngàn ấp.

Ban đầu, chương trình thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân Giải phóng bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức ngụy tham nhũng, ăn bớt tiền viện trợ của Mỹ rồi bắt dân phải gánh chịu thay như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Dân bị cưỡng bách lao động xây dựng Ấp chiến lược, trong khi đó việc đồng áng của họ bị bỏ phế. Dân chúng bị gom vào một chỗ, phải rời bỏ quê cha đất tổ và mảnh đất ông cha đã gắn bó nhiều năm, nhiều đời, làm xáo trộn nếp sống thường nhật, văn hóa dân tộc và địa phương, gây tâm lý bất bình của quần chúng nông thôn.

Riêng trong năm 1963, quân Giải phóng và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895 Ấp chiến lược trong số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã bị phá đi phá lại 5.950 lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên miền Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng ngàn Ấp chiến lược đã biến thành làng chiến đấu.
Quân Giải phóng và người dân quan sát mô hình Ấp chiến lược và bàn cách phá trại.

Ấp chiến lược thất bại vì nó là một chính sách phản động của giặc xâm lược và là một hệ thống bất nhân, gây lầm than cho dân và oán than trong dư luận. Một số nguyên nhân khác về việc sụp đổ của chương trình Ấp chiến lược bao gồm: Tham nhũng, ăn bớt tiền tài trợ Mỹ dành cho chương trình; tổ chức kém; người Mỹ không trực tiếp làm, thiếu nhân sự chuyên môn; thi hành vội vã và theo cách áp đặt, cưỡng bách, gây nhiều tội ác. Bên cạnh đó quân Giải phóng thì phát động phong trào phá trại để trở về quê cũ.

Nói chung, hệ thống Ấp chiến lược dù có thành công phần nào trong mục tiêu "tát nước bắt cá", nhưng "tác dụng phụ" của nó là những tai tiếng ngày càng tăng trong dư luận Việt Nam và quốc tế, nó gây ra sự bất mãn, hờn oán tột cùng trong dân, và nó dần thất bại trong các phong trào phá Ấp chiến lược do cách mạng phát động với sự hưởng ứng gần như tuyệt đối của bà con nông thôn.

II.2D. Đường Trường Sơn - Đường mòn Hồ Chí Minh


Năm 1955, chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bàn kế sách chi viện cho miền Nam, phác thảo các kế hoạch và phương pháp cụ thể. Đến năm 1959, Đường Trường Sơn bắt đầu được xây dựng bí mật, cùng với 4 con đường khác được triển khai mà mãi đến gần đây mới được hé lộ và giải mật.

Đường Trường Sơn được xem là con đường huyết mạch, đóng vai trò lớn trong chiến thắng của Việt Nam trước Hoa Kỳ, nó là một mạng lưới giao thông chiến lược quy mô lớn, chạy từ Bắc vào Nam, đi qua miền Trung, Lào và Campuchia.

Hệ thống giao thông này đã tiếp viện nhân lực và vật lực cho cuộc chiến chống Mỹ trong 15 năm (1960-1975). Binh đoàn Trường Sơn (đoàn 559) của quân đội Việt Nam là đơn vị triển khai các đơn vị công binh, hậu cần, y tế, bộ binh và phòng không để bảo đảm cho hoạt động của hệ thống đường này. Con đường này đi qua 20 tỉnh ở Việt Nam.

Hệ thống đường này được đặt tên giản dị là Đường Trường Sơn, lấy tên của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, nơi hệ thống này đi qua. Người Mỹ gọi hệ thống giao thông chiến lược này là "Ho Chi Minh Trail" (Đường mòn Hồ Chí Minh). Sau đó báo chí Việt Nam thấy hay nên đã dùng danh từ này để gọi xen kẽ bên cạnh danh từ "Đường Trường Sơn". Ngoài ra đường này còn một tên gọi khác ít sử dụng hơn: "Đường 559" (năm 1959).
Bộ đội Trường Sơn lái xe trên hai sợi dây để "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai". Tài lái xe tránh chướng ngại vật và máy bay Mỹ của họ trên con đường huyết mạch này, trong khi vẫn bảo đảm tốc độ di chuyển, đã được dư luận ghi nhận và gọi họ là các "phi công mặt đất".

Một phần của Đường Trường Sơn vốn đã tồn tại từ hàng thế kỷ dưới hình thức các con đường mòn sơ khai dành cho việc giao thông buôn bán trong vùng. Khu vực mà hệ thống đi qua là một trong những vùng đất có địa hình hiểm trở nhất thế giới: Núi cao, ít dân, rừng rậm nhiệt đới.

Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Việt Minh đã sử dụng hệ thống đường mòn này làm đường nối liền Bắc - Nam, một trong các tuyến đường đưa cán bộ di chuyển giữa hai miền và tránh được tai mắt quân Pháp và cả Phòng nhì Pháp. Đến năm 1958, các lực lượng của Việt Nam và Pathet Lào đã chiếm giữ các nút giao thông tại Tchepone, trên đường 9 nằm trong địa phận Lào. Đường Trường Sơn chính thức được xây dựng phát triển thêm vào năm 1959, ra mắt chính thức vào đúng ngày sinh nhật chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1959), được đưa vào sử dụng từ năm 1960 đến năm 1975.

Một trong những mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là ngăn chặn sự tiếp viện từ hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam, là 1 trong các mục tiêu chính, cũng là mục tiêu lớn nhất của họ, chính là Đường Trường Sơn, và họ đã đẩy những nỗ lực chiến tranh lên cao nhất để đạt cho bằng được mục tiêu đó.

Nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đó, Mỹ tiến hành nhiều loại hình chiến tranh công nghệ cao như: Chiến tranh điện tử (đặc biệt lừng danh với McNamara Line - Hàng rào điện tử McNamara, một phát kiến của bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara), chiến tranh hóa học (đặc biệt tai tiếng với Agent Orange - Chất độc da cam, và độc chất Dioxin bên trong nó, đã gây ra thảm họa sinh thái ở Seveso (Ý), Times Beach (Missouri, Mỹ), Love Canal (New York, Mỹ)), và chiến tranh khí tượng trên toàn tuyến đường.

Lần đầu tiên Mỹ đã sử dụng nhiều vũ khí hiện đại nhất, với những công nghệ mới nhất, tập trung khối lượng lớn nhất bom, mìn thả xuống dọc dãy Trường Sơn. Các loại hình chiến tranh điện tử, chiến tranh hóa học và chiến tranh khí tượng của giặc Mỹ đã gây khó khăn và tổn thất nặng nề cho Binh đoàn Trường Sơn.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thị sát chiến trường trên đường Trường Sơn và đến thăm hỏi, khích lệ, động viên, căn dặn những cán bộ chiến sĩ Trung đoàn ô tô vận tải 13 đang làm nhiệm vụ vận tải chi viện chiến trường (13/3/1973).


Một trong những chương trình tiêu biểu của tác chiến điện tử trong cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam chính là Hàng rào điện tử McNamara (McNamara Line), là tên gọi cho hệ thống các phương tiện điện tử phát hiện thâm nhập được quân đội Mỹ sử dụng dọc theo khu phi quân sự ở vĩ tuyến 17 và Đường Trường Sơn như một biện pháp trinh sát mặt đất tự động nhằm phát hiện các hoạt động vận chuyển của Quân đội Nhân dân Việt Nam lưu thông qua khu vực này.

Hàng rào điện tử McNamara được xây dựng từ tháng 6 năm 1966 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara, bao gồm hệ thống 17 căn cứ quân sự, kết hợp với hệ thống vật cản (hàng rào dây thép gai, bãi mìn....), các thiết bị trinh sát điện tử mặt đất và trên không (rađa, máy cảm ứng âm thanh, cảm ứng địa chấn....), được bố trí liên hoàn trong khu vực có chiều rộng 10-20 km, dài khoảng 100 km từ cảng Cửa Việt lên đường 9, tới biên giới Việt Nam - Lào, sang Mường Phìn (Lào). Công trình này đã tiêu tốn hơn 2 tỷ USD.

Các máy phát hiện thâm nhập thường theo nguyên lý phát hiện địa chấn, vì vậy chúng có tên gọi kết thúc bằng 3 chữ SID (Seismic Intrusion Detector). Các máy này dùng để phát hiện thâm nhập bằng đường bộ. Loại máy được biết đến nhiều nhất, thường được gọi là "cây nhiệt đới" (ADSID - Air Delivered Seismic Intrusion Detector), được thả từ trên máy bay để đầu nhọn có cảm biến địa chấn cắm vào trong mặt đất. Phần thấy được còn lại trên mặt đất là ăng-ten. Có loại máy phát hiện địa chấn có kèm thêm bộ phận thu truyền âm thanh để trạm trinh sát kiểm tra đối tượng gây địa chấn là người hay xe vận tải (ACOUSID). Ngoài các máy phát hiện địa chấn thả từ máy bay còn có các máy có tính năng tương tự do binh lính triển khai, thường dùng trong các hoạt động chiến thuật phục vụ canh phòng hay phục kích (GSID hay Ground Seismic Intrusion Detector, PSID hay Patrol Seismic Intrusion Detector và HANDSID).

Theo hồ sơ biên bản buổi chất vấn trong Thượng viện Mỹ ngày 20/3/1974 trong kho lưu trữ tài liệu về Chiến tranh Việt Nam của trường Đại học Texas Tech thì Mỹ đã dùng chất độc để phá hoại khí hậu, thời tiết, địa chất ở miền Nam Việt Nam. Trong chiến dịch "Operation Popeye", Mỹ dùng công nghệ cao tạo ra mây để tăng lượng mưa khoảng 30% trong suốt hai năm 1967 và 1968 trên Đường Trường Sơn, hy vọng gây khó khăn và làm giảm nhuệ khí, ý chí của quân dân Việt Nam di chuyển trên những con đường đó. Mỹ cũng đã rải hóa chất quanh Khe Sanh để xua tan những sương mù gây khó khăn cho không quân của họ trong chiến dịch Khe Sanh năm 1968.

Đây là một loại hình chiến tranh mà Mỹ đã sử dụng những công nghệ tiên tiến nhất cùng những thiết bị hiện đại nhất với mục đích làm đảo lộn, phá hủy môi sinh, thiên nhiên, gây lụt lội, tắc ách ở trên những tuyến của đường mòn Hồ Chí Minh chi viện từ Bắc vào Nam, đặc biệt với con đường huyết mạch Trường Sơn. Chiến tranh khí tượng của Mỹ được che đậy dưới những danh từ thơ mộng, vô hại, thân thiện như "Người đồng bào trung gian" (Intermediary compatriot), "Chương trình mở mắt" (Popeye), "Công trình sông Nile xanh" (Blue Nile)....
Gian nan vượt Trường Sơn đi cứu quốc


Ngoài "Đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ" kể trên, miền Bắc còn tiếp viện cho miền Nam qua 4 "Đường mòn Hồ Chí Minh" khác: Đường Hồ Chí Minh trên biển, đường nhiên liệu, đường hàng không và đường chuyển ngân.

Trong những chuyến đầu từ năm 1961 trở đi trên Đường Hồ Chí Minh trên biển, CIA của Mỹ, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo (CIO - Central Intelligence Office) và Nha Kỹ thuật (STD - Strategic Technical Directorate) của ngụy quyền đã biết con đường này ngay từ những chuyến đầu, nhưng họ chưa biết là tàu nào vì có quá nhiều tàu đánh cá, và biển cả mênh mông không biết tàu miền Bắc sẽ đi đường nào để tiếp viện vào Nam.

Do đó, họ đã tăng cường rải quân quan sát, ngăn cản, đón bắt, trong đó có các căn cứ ở Hoàng Sa và Trường Sa. Sở dĩ như vậy là vì sau năm 1968, hải quân Việt Nam phải đi đường xa, đường vòng, và đi ngang qua Hoàng Sa - Trường Sa chứ khó thể đi gần đất liền được nữa vì Mỹ-ngụy đã biết nên canh phòng kỹ, giăng ra "thiên la địa võng" để truy lùng, đón đánh cho bằng được những đoàn tàu không số, nhằm ngăn chặn con đường quan trọng "Hồ Chí Minh trên biển", 1 trong 5 "đường mòn Hồ Chí Minh", là tuyến đường vận tải bí mật trên Biển Đông được thành lập để vận chuyển vũ khí và cả nhân lực từ miền Bắc vào tiếp viện cho miền Nam.

Đường nhiên liệu trên những đường ống với tổng chiều dài tới 5.000 km, để vận chuyển xăng dầu suốt từ biên giới Việt - Trung và các cảng biển miền Bắc vào đến tận Nam Bộ, có chỗ vượt qua cả những độ cao tới gần ngàn mét. Con đường này CIA mơ hồ nhận thức là có tồn tại qua các tin tức tình báo chung chung, nhưng họ không có chứng cứ gì chi tiết cụ thể, vì vậy mọi nỗ triệt phá của Mỹ-ngụy trên con đường này đều rất kém hiệu quả.

Đường hàng không vừa bí mật vừa công khai, hay nói chính xác hơn là bí mật trong công khai, bí mật về nhiệm vụ và công khai về đi lại. Người chiến sĩ bắt đầu thường là lặn lội đến Nam Vang (Campuchia), rồi từ đây bay trở lại miền Nam Việt Nam, thậm chí bay ngang qua chính Sài Gòn, ghé Hồng Kông hoặc Quảng Châu (Trung Quốc) rồi về Hà Nội. Con đường này đã từng vận chuyển hàng ngàn lượt tướng tá từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, vận chuyển tiền bạc cho cơ quan Kinh tài của miền Nam, vận chuyển rất nhiều thứ máy móc, thuốc men quan trọng, vận chuyển thương binh, vận chuyển vợ con những chiến sĩ và cán bộ của miền Nam ra Bắc để học tập và điều dưỡng.

Đường chuyển ngân thì vô cùng bí ẩn, vì đó con đường vô hình vô ảnh, không có đường trên đất liền, trên biển, trên không, trên những đường ống, mà là đi theo hệ thống ngân hàng của chính các nước phương Tây và hệ thống ngân hàng ở ngay Sài Gòn để chuyển tiền một cách "công khai" từ Bắc vào Nam, từ các nguồn tài trợ của các nước vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn rút ra tiền bản địa để chi tiêu cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Không có xe, không có máy bay, không có tàu thủy, không có gùi thồ, chỉ những mật mã, những cú điện là tiền từ Paris, London, Hồng Kông, Bangkok, Moskva, Bắc Kinh.... được chuyển qua Sài Gòn rồi lên các căn cứ địa ở khắp miền Nam, được thanh toán cho những địa chỉ cần thiết ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Con đường đó suốt 20 năm "ai làm thì biết", CIA không biết, chính quyền Sài Gòn càng không biết, nên không một ai bị bắt, không một vụ chuyển ngân nào bị phát hiện.

II.2E. Hệ thống địa đạo


Đường Trường Sơn và 4 đường mòn Hồ Chí Minh là một trong số nhiều công trình xây dựng kỳ vĩ và rất đặc thù Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm thời hiện đại, bên cạnh hệ thống địa đạo của Việt Nam được xây dựng và sử dụng trong hai cuộc kháng chiến, tiêu biểu như địa đạo Củ Chi (250 km, dài nhất châu Á) địa đạo Vịnh Mốc, địa đạo Kỳ Anh, địa đạo Nam Hồng, địa đạo Gò Thì Thùng, địa đạo Nhơn Trạch, địa đạo của chiến khu Đ và hàng trăm địa đạo lớn nhỏ khác ở cả hai miền Việt Nam.

Đặc biệt địa đạo Củ Chi nổi tiếng đã trở thành một biểu tượng chống xâm lược của Việt Nam, mỗi năm thu hút hơn 1 triệu lượt du khách quốc tế. Địa đạo này được xây dựng từ năm 1948 trong kháng chiến chống Pháp, ban đầu địa đạo chỉ có chiều dài khoảng 48 km, sau đó được mở rộng dần lên. Đến năm 1975 kết thúc kháng chiến chống Mỹ thì địa đạo đã có tổng chiều dài trên 250 km, dài nhất trong số các địa đạo ở châu Á.
Địa đạo Củ Chi rộng lớn, được coi là một "thành phố đường hầm.


Đất thép Củ Chi là một kỳ quan, và điều đáng khâm phục là "thành phố đường hầm" này là một kỳ quan nhân tạo, được xây dựng trong hoàn cảnh khó khăn với một công nghệ lạc hậu, chứ không phải kỳ quan thiên nhiên hay các kỳ quan nhân tạo khác mà các dân tộc khác thảnh thơi xây dựng trong thời bình.

Năm Đường mòn Hồ Chí Minh và hệ thống địa đạo của Việt Nam đã thể hiện ý chí sắt đá, lòng kiên trung và kiên nhẫn đáng khâm phục, tài tổ chức đáng kinh ngạc, nói lên đỉnh cao trí tuệ thời chiến của người Việt Nam. Năm con đường, hàng trăm công trình xây dựng và tất cả những phẩm chất Việt Nam đó đã đóng vai trò to lớn trong chiến thắng của dân tộc Việt Nam.
Cửa hầm bí mật. Những cửa hầm ngầm này chỉ có người Việt thể hình nhỏ mới có thể vào.
Nhưng ở các cửa hầm khác. Lực lượng đặc biệt Tunnel rat (Lính chuột cống) của quân đội Mỹ vẫn có thể đem chất nổ tiến vào phá hầm. Những người "lính chuột cống" này hành quân xen kẽ cùng các lực lượng chủ lực. Họ được tuyển chọn từ những người thể hình nhỏ, phần lớn lực lượng này là lính đánh thuê từ Puerto Rico (đất phụ thuộc chưa thành tiểu bang của Hoa Kỳ).

II.2F. Khởi nghĩa Trà Bồng


Với chủ trương đánh tan những vở tuồng "bầu cử" "quốc hội" nghị gật và bất hợp pháp của Mỹ-Diệm, đưa phong trào cách mạng tiến lên một bước cao hơn, ngày 13/3/1959, theo sự lãnh đạo của các Đảng bộ ở Quảng Ngãi, trên 400 đồng bào 2 xã Trà Giang, Trà Thủy kéo xuống quận lỵ, biểu tình đấu tranh chính trị vạch trần, lên án những màn kịch "bầu cử" "quốc hội" bù nhìn và phi pháp của Mỹ-Diệm.

Lính ngụy đàn áp, giải tán cuộc biểu tình, rồi mấy ngày sau đi càn quét trả thù, trả đũa. Trước tình hình đó, Thường vụ cơ quan lãnh đạo tỉnh và Ban cán sự miền Tây đã lãnh đạo người dân đấu tranh. Ngày 25/8/1959, Ban cán sự miền Tây, theo thực tế tình hình, đã tạm gác lại chủ trương đấu tranh chính trị thuần túy của Trung ương và đã chỉ thị cho phép tự vệ chống trả lại giặc bằng vũ trang; sử dụng đơn vị 339 đưa về các địa phương để hỗ trợ cho nhân dân và các lực lượng bán vũ trang.

Sáng ngày 28/8/1959, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra khá thành công ở vùng cao Trà Bồng. Người dân xã Trà Sơn kéo ra rẫy, ra rừng cương quyết không chịu bị cưỡng bách đi "bầu cử", khi các đơn vị lính ngụy vác súng đến định đẩy bà con đi "bầu cử" thì bà con dùng lý lẽ đấu tranh, thuyết phục, tranh thủ lính ngụy.

Dân chúng các xã Trà Phong, Trà Thanh, Trà Nham cũng nổi dậy, dùng vũ khí thô sơ chống giặc. Đến trưa thì cuộc khởi nghĩa đã lan rộng ra 16 xã vùng cao. Ngụy quân phải rút bỏ quận lỵ chạy về tỉnh. Các ủy ban tự quản của nhân dân lần lượt được thành lập. Ngày 3/9/1959, nhân dân xã Trà Phong mở Đại hội bầu ra Ủy ban nhân dân tự quản. Sau đó, lần lượt 16 xã vùng cao đã bầu ra Ủy ban nhân dân tự quản. Các Ủy ban nhân dân tự quản ở Nam Việt Nam là một trong những tiền đề chính đưa đến quyết định thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này.

Liên tục 8 ngày đêm chiến đấu, quân dân, du kích Trà Bồng đã đánh tan bộ máy ngụy quyền trong thị xã, phá vỡ các đồn bốt, diệt 161 lính giặc và loại khỏi vòng chiến hàng trăm kẻ khác. Hơn 40 xã thuộc các huyện miền Tây Quảng Ngãi đã thành công giành chính quyền, tạo ra một thế đứng vững chắc của lực lượng kháng chiến, trên một địa bàn hiểm yếu nối liền với căn cứ kháng chiến ở Tây Nguyên.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và các cuộc nổi dậy ở miền Tây Quảng Ngãi đã mở đầu thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, góp phần đẩy mạnh phong trào khởi nghĩa từng phần của quân dân miền Nam trong những năm 1959-1960. Cuộc khởi nghĩa còn làm tăng thanh thế cho cuộc kháng chiến và góp phần khích lệ, cổ vũ cho cao trào Đồng khởi bùng lên sau đó.

II.2G. Phong trào Đồng khởi


Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, nhất là từ khi Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật 10/59 công khai tàn sát, làm nhiều cán bộ, đảng viên và người dân bị giết hại, tù đày. Trong khi chủ trương và đường lối của cách mạng lúc đó là thuần túy đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang về cơ bản là chưa được phép. Tình hình lúc đó là trên chưa cho đánh, trong khi quân giặc ngày càng tăng cường tàn sát.

Hiện tượng đó làm nhiều cán bộ, đảng viên và người dân miền Nam bất mãn và bớt niềm tin vào Đảng và Trung ương ở Hà Nội về chủ trương chỉ đấu tranh chính trị - không đấu tranh vũ trang. Bất mãn nhưng vẫn làm theo. Tuy nhiên vẫn có một số người mất hết lòng tin, nản lòng rồi ra hàng giặc.

Vào tháng 8/1956, ông Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đi quan sát và lấy ý kiến Đảng bộ và nhân dân Cà Mau, Bến Tre và khu vực Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn để hoàn thành dự thảo "Đường lối cách mạng miền Nam". Hội nghị lần thứ hai của Xứ ủy đã đã thông qua "Đường lối cách mạng miền Nam" và báo cáo Bộ Chính trị và chủ tịch Hồ Chí Minh.

"Đường lối cách mạng miền Nam" trở thành văn kiện chính trị "Đề cương cách mạng miền Nam", trong đó có những kết luận quan trọng sau đây:

"Trên cơ sở nhận rõ mục đích yêu cầu, vị trí và đối tượng của cách mạng miền Nam, cần định ra đường lối phương pháp đấu tranh thích hợp để phát triển lực lượng, đẩy mạnh phong trào, đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.... Muốn chống Mỹ-Diệm nhân dân miền Nam chỉ có con đường cách mạng, không có con đường nào khác".

"Trong hai năm nay, ở khắp nông thôn miền Nam không lúc nào ngớt tiếng súng đạn đàn áp của Mỹ-Diệm, không ngày nào những người yêu nước không bị tàn sát, nhưng tinh thần cách mạng của nhân dân vẫn vững vàng, quyết tâm của quần chúng bảo vệ cách mạng vẫn không lay chuyển".

"Có nhiều hình thức khác nhau để đánh đổ một chính quyền phản động, nhưng mọi chính quyền thù địch với nhân dân sụp đổ đều theo một quy luật chung: một chính quyền phản động nhất định sẽ sụp đổ khi mà đa số nhân dân không thể sống một cách bình thường dưới chính quyền ấy được nữa, khi mà đội quân tiên phong và đông đảo quần chúng cách mạng biểu thị quyết tâm vùng lên đánh đổ nó, khi mà bản thân bọn cầm quyền cũng không cai trị một cách bình thường được nữa. Tức là khi chính quyền của chúng bị suy yếu đến mức trở nên bất lực do sự xung đột giữa nhân dân với chúng ngày càng gay gắt, do sự khủng hoảng của chúng ngày càng nghiêm trọng, nhất là về chính trị, do mâu thuẫn nội bộ bọn cầm quyền ngày càng sâu sắc và do tình hình thế giới phát triển không có lợi cho chúng".

Như vậy là tiếp theo Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 6/1956), Đề cương cách mạng miền Nam và nghị quyết Xứ ủy Nam Bộ đã xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam. Trước mắt trong tình hình hòa bình phát triển đã qua nhưng toàn dân khởi nghĩa chưa tới, Xứ ủy Nam Bộ đã tổ chức vũ trang tuyên truyền theo kinh nghiệm của chủ tịch Hồ Chí Minh khi Bác thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

Thực tiễn tổ chức và hoạt động vũ trang tuyên truyền còn do sự sáng tạo của từng địa phương và diễn ra phong phú nhưng đều nhằm tiến tới khởi nghĩa lật đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Tại Liên khu V, do sự tấn công càn quét có hiệu quả của Mỹ-ngụy và do các Đảng bộ địa phương nhận định không rõ đặc điểm khác nhau của từng vùng trong khu để vận dụng phương pháp đấu tranh thích hợp, nên phong trào đấu tranh ở đồng bằng bị sa sút nặng.

Tháng 9/1956, vì là nhân vật lãnh đạo đầu não quan trọng và muốn được an toàn, ông Lê Duẩn ra Bắc theo đường Hồ Chí Minh trên biển và đường hàng không, 2 trong 5 "đường mòn Hồ Chí Minh". Ông đi tàu biển từ Campuchia ra Hồng Kông, bay sang Quảng Châu (Trung Quốc) đến 4/6/1957 mới tới Hà Nội.

Ra Hà Nội, ông Lê Duẩn trình lên Hồ chủ tịch và Bộ Chính trị bản Đề cương cách mạng miền Nam với kết luận: "Ban đầu thì miền Nam nổi dậy nhưng cuối cùng phải dùng sức mạnh của cả nước mới cản được đế quốc Mỹ". Đồng thời báo cáo cụ thể với Bộ Chính trị về tình hình địch - ta và ý kiến, nguyện vọng của đảng viên, quần chúng trong Nam đề nghị phát động đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên quan điểm của Lê Duẩn chưa tìm được nhiều sự đồng thuận. Tuy nhiên, sau khi đọc đề cương và nghe Lê Duẩn báo cáo, sau khi suy nghĩ cặn kẽ, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giao cho ông Lê Duẩn làm công việc của Tổng bí thư Đảng và trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam.

Đánh giá rất cao Đề cương cách mạng miền Nam, Hồ chủ tịch giao cho Lê Duẩn chuẩn bị một Nghị quyết về cách mạng miền Nam. Ông Lê Duẩn hỏi thêm ý kiến của Bác Hồ, trao đổi với các lãnh đạo như đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng.... và đã cùng nhiều đồng chí lãnh đạo và cán bộ nghiêm túc chuẩn bị cho Nghị quyết mới. Chưa có một dự thảo nghị quyết nào của Trung ương được chuẩn bị công phu như nghị quyết này.

Lúc này, nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô khuyên Việt Nam là "nên giữ hòa bình". Còn Trung Quốc thì vẫn lặp lại chủ trương từ đầu của họ là nên "trường kỳ mai phục". Nên "mai phục" 10 năm, 20 năm, thậm chí cả 100 năm, "đại nghiệp thống nhất là sự nghiệp lâu dài", "hiện tại các đồng chí chưa thống nhất được thì đời con cháu sẽ làm trong tương lai". Đây không hẳn là sự góp ý chân thật mà là một lời ngụy biện "khuyên đểu", một ngụy biện quanh co ý nói hãy thủ tiêu tranh đấu, ngưng chiến đấu chống Mỹ, vì các mục đích, mục tiêu và lợi ích chính trị của họ.

Trong tình hình đó, chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Nhà nước, Chính phủ đều phải ngày đêm suy nghĩ để vạch ra đường lối và biện pháp, bước đi phù hợp cho cách mạng miền Nam sao cho giành được thắng lợi mà ít tổn thất xương máu, lại thích hợp với tình hình trong và ngoài nước, bảo đảm được đoàn kết quốc tế và tranh thủ được sự giúp đỡ, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào hòa bình thế giới.

Vào cuối năm 1958, tình hình miền Nam đã quá căng thẳng. Các cuộc đánh phá đẫm máu của ngụy quyền họ Ngô đối với người dân đã đến đỉnh cao về mức độ khốc liệt và tính chất phi nhân. Những người cộng sản và cả những người yêu nước phi cộng sản bị truy lùng ráo riết. Cơ sở Đảng bị tổn thất nặng nề. Hàng ngày, khắp nơi đều có "đầu rơi máu chảy" đúng nghĩa đen.

Sự chịu đựng của dân đã đến giới hạn cuối cùng, họ đòi "nợ máu phải trả bằng máu". Tất cả nông dân xã Hòa Hội, tỉnh Tây Ninh đều ký tên vào bức tâm thư gởi lên Bác Hồ báo cáo: "Nhân dân bị khủng bố, cán bộ bị giết hại, xin cho bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc trở về đánh giặc cứu dân".

Trong một cuộc mít tinh có cụ già nghẹn ngào, uất ức nói: "Bác Hồ ơi!, Mỹ-Diệm nó độc ác quá lắm rồi, Bác cho phép đồng bào băm nát đầu chúng nó". Tỉnh Thủ Dầu Một có 30 lão nông gởi thơ lên Xứ ủy, chất vấn gay gắt: "Tình hình như vậy không biết Xứ ủy có báo cáo lên Trung ương, lên Bác Hồ hay không?". Các cụ yêu cầu Xứ ủy đề nghị lên Bác Hồ cho đấu tranh vũ trang trở lại, nếu không thì không thể nào thắng Mỹ. Đây là nguyện vọng và cũng là nỗi bức xúc của bà con miền Nam.

Ý nguyện đó của người dân đã thôi thúc các cấp ủy Đảng ở miền Nam, khu V và những đảng viên, cán bộ hoạt động ở cơ sở mạnh dạn lãnh đạo quần chúng tìm kiếm / chế tạo vũ khí hoặc tước súng giặc đánh giặc, tăng cường vũ trang, chủ động nổi dậy ở những nơi có đủ điều kiện mặc dù chưa có ý kiến của Trung ương.

Nổi bật nhất trong thời kỳ này là các sự kiện quan trọng:

  • Tại Cà Mau, hàng chục vạn dân kéo vào rừng U Minh và Năm Căn lập nên hàng chục "làng rừng" công khai chống Mỹ-Diệm, lập vùng tự do, tự quản lý, xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng để chống giặc.
  • Tại Thủ Dầu Một, lực lượng vũ trang cách mạng đã tiến lên tiêu diệt được chi khu quận lị Dầu Tiếng tịch thu được rất nhiều súng đạn và tiền trong 10 két sắt.
  • Tại miền Tây Quảng Ngãi đã diễn ra Đại hội Gò Rô của đồng bào các dân tộc kêu gọi các dân tộc anh em đoàn kết xung quanh cụ Hồ, đồng lòng hợp sức đánh đổ Mỹ-Diệm. Mọi người không phân biệt dân tộc, già, trẻ, gái, trai…. phải sẵn sàng chuẩn bị nổi dậy giành chính quyền.

Bước vào năm 1959, cách mạng Việt Nam đứng trước một quyết định hệ trọng. Ngày 13/1/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng khai mạc tại thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Hồ chủ tịch và ông Lê Duẩn.

Dự Hội nghị có nhiều nhà lãnh đạo các địa phương Khu V ở miền Nam. Các ông Phan Văn Đáng, Phạm Văn Xô đại biểu Xứ ủy Nam Bộ; các ông Trần Lương, Võ Chí Công đại biểu Khu V đã vượt qua hàng ngàn cây số và đồn bót, kịp tới Hà Nội dự hội nghị. Các đồng chí lãnh đạo địa phương đã đưa về đây các tin tức nóng hổi, các cập nhật tình hình mới nhất, và quan trọng là nguyện vọng, ý muốn của nhân dân và các đảng bộ miền Nam.

Hội nghị Trung ương đã nghiên cứu trao đổi phân tích kỹ về tình hình địch - ta, khảo sát khả năng và lực lượng cách mạng, tìm ra đường lối, phương pháp cách mạng thích hợp nhất cho miền Nam.

Vấn đề nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng, vấn đề kẻ thù đều nhanh chóng có được sự đồng thuận. Còn những vấn đề gay cấn mà mọi người tranh luận gay gắt nhất là:

  • Đánh giá đế quốc Mỹ.
  • Cách mạng miền Nam, chiến tranh cách mạng và vấn đề bảo vệ hòa bình chung.
  • Phương pháp cách mạng ở miền Nam.

Trong lịch sử Đảng tới thời điểm đó chưa có hội nghị nào của Trung ương mà được chuẩn bị công phu, trao đổi sôi nổi, kỹ càng như hội nghị này. Tranh luận ráo riết gần như cả ngày. Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương tiến hành suốt cả tháng từ giữa tháng giêng đến giữa tháng tháng 2 năm 1959.

Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền Nam cuối cùng được đề ra như sau:

  • Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
  • Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô đình Diệm tay sai Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Về con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Trung ương Đảng nhận định không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là dùng bạo lực cách mạng.

Về chế độ thống trị của Mỹ-Diệm dựa vào bạo lực phản cách mạng để tồn tại, mà ta thì phải dựa vào lực lượng quần chúng, lấy lực lượng quần chúng để đánh đổ kẻ thù, cho nên muốn đạt được mục tiêu đó, cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ. "Phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng".

Về khả năng hòa bình phát triển, Trung ương Đảng cho rằng khả năng này hầu như không có, vì Mỹ đã quyết tâm bám lấy miền Nam, sẽ không bao giờ có chuyện họ tự nguyện giải tán ngụy quyền, từ bỏ các hành động xâm lược và tội ác chiến tranh.

Quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam là quá trình xây dựng, củng cố phát triển phong trào quần chúng đấu tranh chính trị từ hình thức thấp đến hình thức cao, đẩy lùi địch từng bước tiến đến làm lay chuyển tận gốc chính quyền đó, "cuối cùng phát động quần chúng khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm khi có thời cơ thuận lợi ở trong nước và trên thế giới".

Ông Hai Văn và Hai Xô hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ trương đấu tranh vũ trang tại miền Nam, Người nói: "Dù sao cũng không thể để cách mạng chịu tổn thất hơn nữa. Xứ ủy các chú có là Đảng không? Trung ương ở xa, các chú phải tùy tình hình, cân nhắc kỹ lưỡng mà quyết định và chịu trách nhiệm". Các đồng chí miền Nam hỏi về khả năng phải tiến hành chiến tranh cách mạng, Bác Hồ nói đại ý: Mỹ Diệm quá tàn ác, không đánh không được. Đánh Pháp ta phải vừa đánh vừa học, đánh Mỹ cũng phải vừa đánh vừa học, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi.

Nói chung, hội nghị này đã quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng võ lực để đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm. Sau khi Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua, quân dân miền Nam từ các hình thức đấu tranh thuần túy chính trị đã chuyển sang hình thức đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, từ đó cách mạng miền Nam mới có chuyển cơ tích cực.

Tại Bến Tre, Nghị quyết 15 đã làm quân dân vỡ òa, cuối cùng cũng cho đánh rồi. Từ nay quân dân miền Nam không còn phải chịu đựng, phải giấu súng trốn tránh nữa, mà có thể công khai dùng võ lực tự vệ, bắn trả, chống càn, chống trả các đợt tấn công, càn quét của quân thù. Sau quyết định này, các xưởng quân giới mọc lên nhiều nơi ở nông thôn miền Nam.
Gỡ lựu đạn địch đánh địch, tận dụng, tiết kiệm từng vũ khí
Già trẻ gái trai Sóc Trăng tham gia chế tạo võ khí thô sơ để chống càn
Một góc công binh xưởng Sóc Trăng sản xuất mìn, đạp lôi

Riêng ở Bến Tre nhiều súng ngựa trời đã được chế tạo. Đây là loại súng tự chế có sức sát thương cao, để bù đắp sự thiếu thốn vũ khí của lực lượng vũ trang miền Nam trong giai đoạn miền Bắc chưa tiếp viện. Các vũ khí giả, súng giả, đại bác giả được làm từ.... cây dừa, chất liệu dừa của đồng bào xứ dừa Bến Tre đã thành công gây sợ hãi cho một số đồn giặc và thuyết phục được họ đầu hàng, sau đó quân dân Bến Tre lại lấy súng của họ đi đánh những đồn giặc không chịu đầu hàng. Lấy súng giả tước súng thật, rồi dùng súng giặc đánh giặc.

Đêm 2 tháng 1 năm 1960, ban lãnh đạo tỉnh Bến Tre họp tại xã Tân Trung, quyết định: "Phát động một tuần lễ toàn dân đồng khởi, diệt ác ôn, phá thế kìm kẹp, giải phóng nông thôn, làm chủ ruộng vườn". Đồng thời quyết định khởi nghĩa thống nhất từ ngày 17 tháng 1 đến ngày 25 tháng 1.

Ngày 17/1/1960, theo kế hoạch đã định, cuộc Đồng khởi bùng nổ đúng như dự kiến tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre). Chỉ sau hai ngày, 3 xã trên hoàn toàn giải phóng. Trung đội quân Giải phóng đầu tiên của Bến Tre được thành lập tại vườn Dừa, xã Bình Khánh. Sau đó, phong trào chuyển hướng sang Giồng Trôm, tập trung ở các xã trọng điểm Châu Hòa, Châu Bình và Phong Mỹ dưới sự lãnh đạo của nữ tướng Nguyễn Thị Định.

Từ thành công trên, trong vòng 1 tuần (17 đến 24 tháng 1), 47 xã ở Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú nổi dậy. Lực lượng nổi dậy làm chủ nhiều ấp, trong đó hoàn toàn làm chủ 22 xã.
Người dân Giồng Trôm, Bến Tre cắm chông diệt giặc

Ngày 24 tháng 2, Mỹ-Diệm phản kích, huy động hơn 3.000 quân đánh vào 3 xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp. Các du kích xã đã dùng các vũ khí thô sơ phản công, điển hình là súng ngựa trời. Cuộc tấn công thất bại. Từ Bến Tre, phong trào Đồng khởi lan khắp miền Nam, làm lung lay các ngụy quyền địa phương.

Ngày 25/3/1960, hơn 10.000 quân hỗn hợp Thủy - Bộ - Biệt kích - Dù tiến vào vây đánh nhiều xã ở huyện Mỏ Cày. Trước tình hình trên, lãnh đạo Bến Tre quyết định dùng biện pháp chính trị, phát động quần chúng, đặc biệt là phụ nữ, trong đó có rất nhiều người chính là bà, mẹ, người nhà của các sĩ quan và binh lính ngụy. Hàng vạn phụ nữ này tràn ngập những vùng tạm chiếm làm náo loạn sự ổn định của địch, họ đặc biệt tụ tập ở những nơi có phóng viên chiến trường người nước ngoài để thu hút sự chú ý của dư luận bạn bè quốc tế, đồng thời làm cho Mỹ-ngụy sợ dư luận mà không dám khinh suất gây tội ác hay đàn áp quá mạnh bạo.

Các sĩ quan ngụy gọi họ là "đội quân đầu tóc", từ đó dần biến thành "đội quân tóc dài" và danh từ này trở thành danh từ thông dụng để gọi phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam Việt Nam, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ.
Đội quân tóc dài ở Bến Tre yêu cầu đế quốc Mỹ rút khỏi Việt Nam.


Tháng 3/1960, đội quân tóc dài bao gồm hơn 7.000 phụ nữ Giồng Trôm biểu tình đòi các đơn vị quân chủ lực ngụy đang càn quét phải rút về vị trí cũ. Tháng 6/1960, các chi bộ Đảng quyết định phát động Đồng khởi trên toàn Nam Bộ.

Ngày 24/9/1960, quân dân Bến Tre phát động cuộc Đồng khởi lần hai. Bấy giờ, phong trào không chỉ diễn ra ở những nơi họ nghĩ là có thể thắng thế mà còn dám phát động ngay cả ở những vùng trọng yếu khác.

Cùng thời gian với Bến Tre, tỉnh Kiến Phong cũng nổi dậy. Các đại đội 272, 274 đã có các trận đánh tiêu diệt và làm bị thương 25 lính giặc, chiếm trụ sở xã, thu súng và làm chủ xã Mỹ Hòa. Đến ngày 20/1/1960 thì quân dân Kiến Phong đã tiêu diệt, làm bị thương 165, chiêu hàng 40 lính ngụy.

Trong khi ngụy quyền địa phương đang lo đối phó với Mỹ Hòa thì huyện Hồng Ngự nổi dậy. Bắt đầu từ 3 xã Tân Thành, Thường Thới, Thường Phước. Đại đội 271 diệt đồn Cả Cái, giải phóng Tân Thành. Tại Cao Lãnh, lực lượng vũ trang xã Bình Thạnh bức rút đồn Bà Cò, làm chủ 1 ấp, thuộc xã Đốc binh Kiều.

Từ ngày 6/3/1960, phong trào càng lan rộng ra các tỉnh. Tại Cà Mau, tiểu đoàn Ngô Văn Sở phục kích đánh bại, tiêu diệt và bắt sống 150 lính, thu 133 súng, giải phóng nhiều xã. Tại Sóc Trăng, sáu tháng đầu năm 1960, những vùng nông thôn các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, Gia Rai, Hồng Dân, Vĩnh Lộc đều lần lượt trở thành vùng giải phóng.

Các sự kiện trên chủ yếu ở mặt trận Tây Nam Bộ. Nhưng mặt trận Đông Nam Bộ cũng không kém phần quyết liệt. Xứ ủy Nam Bộ sau khi kiến nghị với Trung ương Đảng nâng cao đấu tranh vũ trang đã quyết định mở một trận tiến công lớn. Mục tiêu là lấy thêm vũ khí để nhanh chóng phát triển lực lượng, mở rộng phong trào Đồng khởi, từ Tây Nam Bộ lan sang Đông Nam Bộ.

Địa điểm được chọn là bốt Tua Hai, tiền tiêu án ngữ biên giới Việt Nam - Campuchia, nằm trên đường 22, các thị xã Tây Ninh 5 km về phía bắc. Lực lượng ngụy có 2 trung đoàn, 1 chi đội thiết giáp, 1 đại đội pháo. Lực lượng khởi nghĩa gồm 1 tiểu đoàn và một bộ phận lực lượng tàn quân giáo phái trước đây ở trong các quân đội của đạo Cao Đài, bắt đầu tấn công từ ngày 26/1/1960. Lính ngụy thua to, khoảng 500 lính tử trận, gần 500 bị bắt sống. Lực lượng cách mạng thu được 1.500 súng các loại.

Trận Tua Hai mở đầu cho cuộc đồng khởi ở Đông Nam Bộ. Sau Tua Hai, quân dân Tây Ninh phá sập hơn 50% đồn bốt, giải phóng 24 xã và làm chủ nhiều phần tại 19 xã khác. Ngày 16/3/1961, tiểu đoàn 800 và quân dân miền Đông Nam Bộ tấn công Chi khu quân sự Hiếu Liêm, hôm sau tấn công bốt An Lạc, hỗ trợ quần chúng các nơi nổi dậy.

Tính đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi về cơ bản đã làm tê liệt cơ cấu ngụy quyền cơ sở ở nông thôn trên gần như toàn miền Nam. Trong 2.627 xã toàn miền Nam, người dân địa phương đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã (lúc này Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chưa thành lập), đồng thời làm tê liệt ngụy quyền cơ sở ở hầu hết xã khác.

Dân số vùng giải phóng toàn miền Nam có khoảng 6,5 triệu người trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Phong trào nổi dậy của người dân Đông - Tây Nam Bộ đã giáng một đòn mạnh vào kế hoạch lập Khu trù mật và chính sách "cải cách điền địa" của Mỹ-Diệm.

Trong một báo cáo gửi tổng thống Mỹ John F. Kennedy, CIA nhìn nhận: "Chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1960 tình hình an ninh trong nước vẫn tiếp tục ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng. Toàn bộ vùng nông thôn ở phía nam và tây nam Sài Gòn cũng như một số vùng phía Bắc đã nằm trong quyền kiểm soát rất lớn của Việt Cộng."

II.2H. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập


Thiết kế chính trị của một chế độ cộng sản thường có Đảng và Mặt Trận. Đảng trên nguyên tắc là lực lượng tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo đất nước. Còn Mặt Trận trên nguyên tắc là một mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết các giai cấp để cùng nhau thực hiện mục tiêu chính trị hiện tại của Đảng.

Mặt Trận ở Việt Nam trong lịch sử hiện đại có nhiều tên gọi, trong đó có 3 tên gọi được nhiều người biết tới: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra trước khi có Việt Minh còn có Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc Thống nhất....

Đây là những Mặt trận khác nhau về tên gọi và mục tiêu trong từng thời kỳ, nhưng có cùng 1 bản chất, cùng 1 vai trò với các nhiệm vụ khác nhau. Nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh là đoàn kết dân tộc để chống Pháp trên toàn quốc. Nhiệm vụ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đoàn kết dân tộc để chống Mỹ trên phạm vi miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi thành phần, tầng lớp, trong và ngoài nước, để cùng nhau xây dựng đất nước.
Bất chấp nhiều vụ xả súng vào đoàn biểu tình và các tội ác chiến tranh, người dân miền Nam vẫn giương cao cờ Mặt Trận biểu tình chống Mỹ, đòi độc lập, thống nhất, hòa bình dân tộc.

Mặt Trận chính thức hoạt động ở miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1960, lấy tên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và các nhân sĩ trí thức yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh chống Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập (nghĩa là không mang màu sắc ý thức hệ), tiến tới thống nhất nước nhà.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các Mặt Trận trước đó và sau này, là các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra trong từng thời kỳ khác nhau. Các tên gọi của Mặt Trận tương xứng với các nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ đó.
Lễ tiễn thanh niên tỉnh Mỹ Tho lên đường nhập ngũ (1961)

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên), tỉnh Tây Ninh. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát. Ông Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương.

Theo ước tính của Mỹ, trong vòng vài tháng thành lập, các thành viên của nó tăng gấp đôi, gấp đôi một lần nữa vào mùa thu năm 1961, và sau đó tăng gấp đôi vào đầu năm 1962, ước tính khoảng 300.000 người. Tới năm 1973, thành phần Mặt Trận đã lên đến 32 tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo và hoạt động công khai. Mặt Trận đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Xứ ủy Nam Bộ và sau này là Trung ương Cục miền Nam.

Tại cấp trung ương, Ủy ban Trung ương của Mặt Trận bầu ra Đoàn chủ tịch, là cấp cao nhất, giúp việc có các Ban chuyên môn của Mặt Trận, hay các Hội đồng chuyên môn của Trung ương Mặt trận. Các cấp địa phương cũng có các ban thành lập theo quy định. Trong đó có cả Ban Quân sự, nhưng tương tự như Bộ Quốc phòng sau này nó chỉ làm nhiệm vụ hành chính. Quân Giải phóng miền Nam là lực lượng tham gia Mặt Trận công khai và do Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ đạo quân sự, theo sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các tổ chức Mặt Trận tổ chức tại cấp dưới theo vùng: Tây Nam Bộ, Trung Nam Bộ, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Sài Gòn - Gia Định, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, tỉnh Tây Ninh. Tổ chức Mặt trận cấp vùng chịu sự lãnh đạo của cấp Trung ương.

Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương được tổ chức ở 4 cấp: Cấp miền, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Trong giai đoạn 1960-1967, Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình. Đến năm 1968, một số địa phương như Thừa Thiên-Huế, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, Đà Nẵng v.v. thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng, thì Ủy ban nhân dân cách mạng làm nhiệm vụ của chính quyền. Sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời thì chính phủ và Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp làm nhiệm vụ chính quyền.
Giấy bạc Việt Nam được sử dụng trong vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam.

II.3. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1961-1965)


Để tránh thất bại ở miền Nam Việt Nam sau cao trào Đồng khởi, trước tình trạng lung lay, rạn nứt và nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngụy quyền, người Mỹ đã chuyển sang chiến lược chiến tranh đặc biệt (Staley-Taylor plan), tăng số quân từ 1.077 tướng lĩnh, sĩ quan chỉ huy lên 10.962 tướng tá, sĩ quan, nhân viên quân sự (1962). Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) được thành lập tại Sài Gòn ngày 8/2/1962 để chỉ huy quân đội Sài Gòn.

Chiến tranh đặc biệt là một cuộc chiến "đặc biệt", không tuyên bố và không quy ước theo các thông lệ chiến tranh thông thường. Nó là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Hoa Kỳ, được tiến hành chủ yếu bằng quân lính bản xứ, dưới sự chỉ huy của hệ thống "cố vấn" từ đông đảo các cấp tướng lĩnh và các viên chỉ huy người Mỹ, và dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ để đánh dẹp trong những vùng tạm chiếm và tấn công lấn chiếm những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam.

Chiến lược chiến tranh đặc biệt được thực thi bằng kế hoạch Staley-Taylor, được công bố vào tháng 5/1961, mang tên hai người soạn thảo ra nó là nhà kinh tế học Eugene Staley của Viện nghiên cứu Stanford - Đại học Stanford và đại tướng Maxwell D. Taylor, theo tiến độ, kế hoạch được triển khai trong 4 năm (1961-1965). Nội dung của nó là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Kế hoạch bao gồm 3 biện pháp chiến lược:
  • Tăng cường khả năng tác chiến cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang Việt Cộng, sĩ quan Mỹ chỉ huy các đơn vị chiến đấu Việt Nam Cộng hòa, từ cấp đại đội trở lên.
  • Giữ vững thành thị, đồng thời dập tắt nổi dậy ở nông thôn bằng các chiến dịch tảo thanh, bình định và hệ thống Ấp chiến lược.
  • Ra sức ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào Nam, cô lập cộng sản miền Nam.
Tại miền Nam, Mỹ-Diệm ra sức bắt lính, tăng nhanh lực lượng ngụy quân. Lính ngụy được trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới, như Trực thăng vận, Thiết xa vận.

Theo sự chỉ huy của "cố vấn" Mỹ, quân ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng miền Nam, tiến hành nhiều hoạt động gởi biệt kích, thám báo ra miền Bắc, hoạt động kiểm soát, phong tỏa biên giới và vùng biển, củng cố sự chia cách Bắc - Nam.

Thoạt tiên, Mỹ-Diệm dự định thực hiện chiến tranh đặc biệt, trọng tâm là mục tiêu bình định trong vòng 18 tháng, bắt đầu từ giữa năm 1961 bằng kế hoạch Staley-Taylor. Đến đầu năm 1964, khi 18 tháng đã qua, miền Nam vẫn chưa được bình định, Mỹ đặt lại yêu cầu khiêm tốn: Bình định miền Nam có trọng điểm trong thời hạn 2 năm bằng kế hoạch Johnson-McNamara (mang tên tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson và Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara).

Để đáp ứng yêu cầu khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng và chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ, ngày 15/2/1961, các lực lượng võ trang miền Nam hợp nhất thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra mắt đồng bào. Trung ương Cục miền Nam cũng được thành lập vào tháng 1/1961 thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ. Quân Giải phóng miền Nam cũng là một bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được xem là QĐNDVN của miền Nam Việt Nam.
Quân Giải phóng miền Nam giúp dân gặt lúa ở Kế Sách, Sóc Trăng

Quân giải phóng miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh võ trang, kết hợp nổi dậy với tiến công, trên cả ba vùng chiến lược (thành thị, nông thôn, miền núi), và bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận.

Trên mặt trận quân sự, quân Giải phóng giành thắng lợi mở đầu trong trận Ấp Bắc ở Mỹ Tho vào năm 1963. Tại đây, lần đầu tiên với số quân ít hơn địch 10 lần, quân Giải phóng đánh bại cuộc hành quân càn quét của trên 2 ngàn lính ngụy do "cố vấn" Mỹ chỉ huy, được pháo binh, trực thăng, xe tăng, xe bọc thép của Mỹ yểm trợ.

Trên mặt trận "chống bình định", giữa Việt - Mỹ, cũng như giữa quân dân địa phương và ngụy quyền cơ sở, đã diễn ra cuộc đấu tranh dai dẳng, giằng co quyết liệt giữa lập và phá Ấp chiến lược. Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, từng mảng lớn Ấp chiến lược đã bị quân dân địa phương phá và nhiều ấp sau đó trở thành làng chiến đấu.

Phong trào đấu tranh chính trị lên cao ở các đô thị và nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào đấu tranh đô thị tại những thành phố lớn này đã thu hút đông đảo quần chúng, nhất là giới Phật tử, các tầng lớp học sinh, sinh viên tham gia. Các phong trào này đã góp phần quyết định làm lung lay hệ thống ngụy quyền, buộc Mỹ phải đi đến quyết định "thay ngựa giữa dòng".
Đồng bào Sài Gòn biểu tình tại chợ Bến Thành phản đối chính sách đàn áp của chế độ Mỹ-Diệm

"Thay ngựa giữa dòng"

Trong một hệ thống thực dân mới, kẻ xâm lược không trực tiếp quản lý và tham chiến, mà là dựng lên, nuôi lớn, huấn luyện, trả lương, cung cấp trang bị, và ủy quyền cho các tay sai trực tiếp tham chiến và quản lý, còn người chủ kiểm soát từ bên ngoài, giám sát và đánh giá xem tay sai có làm việc hiệu quả không, tay sai có vai trò gần như một dạng CEO, giám đốc.

Và ông chủ Mỹ ngày càng chán những cách làm kém chính trị, độc đoán, quá khích, cuồng tín, những hành động trắng trợn, lộ liễu gây tai tiếng, đàn áp tôn giáo, tấn công Phật giáo và phân biệt đối xử với các tín hữu Cao Đài, Hòa Hảo (không phải lực lượng vũ trang), chủ yếu để bảo vệ lợi ích Công giáo và lợi ích gia tộc họ Ngô. Người Mỹ dần không còn kiên nhẫn với Diệm. Nhật ký Lầu Năm Góc viết: "Vô luận nó đã đóng góp như thế nào vào nền an ninh nội bộ của chính Việt Nam Cộng hòa, chiến dịch tố cộng đã làm kinh hoàng những người nông dân Việt Nam và làm cho dân chúng thêm thù ghét chế độ".

Phóng viên Thời báo New York Neil Sheehan, trong sách "Sự lừa dối hào nhoáng" do NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh chuyển ngữ và xuất bản năm 1990, đã cho biết như sau: "Mặc dù có những niềm hy vọng của Mỹ và cố gắng viện trợ như vậy, cuộc nổi loạn ở nông thôn đã bắt đầu nổ ra lại vào năm 1957 và đặc biệt là năm 1958. Tình báo quốc gia Mỹ đoán trước: Sự bất mãn và phẫn nộ đối với chính phủ Sài Gòn có lẽ tiếp tục tăng lên và nếu những chiều hướng bất lợi này không bị ngăn chặn thì hầu như chắc chắn sẽ dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ Diệm.""Hoa Kỳ tìm cách tiêu diệt tổ chức Việt Minh cũ và đặt cho cái tên Việt Cộng. Nhưng trong quá trình đó, Hoa Kỳ lại tạo ra một Việt Minh mới còn lợi hại hơn rất nhiều cái tổ chức Việt Minh cũ mà người Pháp đã phải đương đầu ở Việt Nam.".

Theo Nhật ký Lầu Năm Góc mà nhân viên Bộ quốc phòng Mỹ Daniel Ellsberg giao lại cho nhà báo Neil Sheehan, bản đánh giá tình hình của sứ quán Mỹ tháng 1 năm 1960 đã nhận xét như sau: "Chúng ta có thể tóm tắt tình hình như thế này: Chính phủ đối xử với dân chúng với thái độ nghi ngờ và dọa nạt, và đã được đền đáp gằng một sự thờ ơ và lòng căm thù". Trong một đoạn khác Nhật ký Lầu Năm Góc lại ghi: "Ngô Đình Diệm cũng không kiểm soát được dân chúng ở thành phố hoặc giới trí thức.".

Chính nguyền Ngô Đình Diệm đã bất lực trong nhiệm vụ chống phong trào giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước được Mỹ ủy nhiệm. Ông ta quản lý theo phong cách độc tài, độc đoán và bổ nhiệm toàn người nhà với nhau nắm các chức vụ và vai trò quản lý quan trọng, do đó gây mất lòng những tay sai khác của Mỹ, họ liên tục nói xấu Diệm với người Mỹ.

Ngoài tai tiếng "gia đình trị", chính quyền họ Ngô còn có tiếng "Công giáo trị", phân biệt, đối xử bất công, xua đuổi, trấn áp các giáo phái, tôn giáo khác. Và khi các Phật tử và giới Phật giáo đấu tranh đòi tự do bình đẳng tín ngưỡng thì chính quyền Diệm và quân đội Sài Gòn mạnh tay đàn áp, khủng bố, bắt bớ, bỏ tù, gây ra biến cố Phật giáo năm 1963 mà giới tăng ni Phật tử gọi là một pháp nạn, vụ xả súng Phật Đản Huế, vụ tấn công hóa học, rải chất độc hóa học lên đầu các nhà sư ở Huế, cuộc tấn công chùa Xá Lợi v.v.. Bồ tát Thích Quảng Đức và nhiều tăng ni khác đã tự thiêu để phản đối các cuộc đàn áp của ngụy quyền Ngô Đình Diệm.

Thượng tọa Thích Nhất Hạnh theo góc nhìn đạo pháp, đã nói về những biến cố đó như sau:

"Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà ông đề cập là rất tối ư quan trọng.... Tu sĩ Việt Nam tự thiêu nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi.... Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử."

Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

"Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: 1) Thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; 2) Thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; 3) Không muốn sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho kẻ khác... Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người."

Hòa thượng Thích Quảng Đức cùng sáu người khác là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, Đại đức Thích Thanh Tuệ, Đại đức Thích Thiện Mỹ, Đại đức Thích Nguyên Hương, sư cô Thích Nữ Diệu Quang và phật tử Đặng Thị Ngọc Tuyền.... đều đã tự thiêu để phản đối chiến tranh, phản đối tội ác, phản đối ngụy quyền và các chính sách, hành động đàn áp Phật giáo của họ.

Sau nhiều cuộc tự thiêu đó, ngụy quyền Ngô Đình Diệm bối rối vu khống "nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp". Bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu, em dâu Ngô Đình Diệm) nói thêm những câu vô cảm đổ dầu vào lửa mà các báo chí quốc tế đã ghi nhận:

"Tất cả những việc mà Phật giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một nhà sư...."

"Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưỡng bức thiêu sống."

"Tôi sẽ vỗ tay khi thấy thêm một cuộc trình diễn thịt nướng, một người không thể chịu trách nhiệm cho sự khùng điên của những người khác."

"Cứ để họ bị đốt đi và chúng tôi sẽ vỗ tay."

Về sau bà Nhu đã tìm cách nói chữa, khỏa lấp hoặc biện minh các phát biểu vô trách nhiệm này. Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó sư cô Diệu Quang tự thiêu ở Khánh Hòa. Sau bi kịch đó, bà Nhu lại nói: "Nếu Phật giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất vui lòng cung cấp xăng."

Thời điểm đó nhân dân các quốc gia Á - Phi cùng nhau xuống đường liên tục biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam với các biểu ngữ lớn: "Một tăng sĩ Phật giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm." Ngoài ra vụ thảm sát đầu độc giết hại hàng ngàn tù chính trị ở nhà tù Phú Lợi, tuy không liên quan đến vấn đề tôn giáo, những cũng gây chấn động và làm nóng dư luận thêm hơn. Ngụy quyền nhà họ Ngô bị chống ở Việt Nam và khắp thế giới, họ bị chống bởi cả những tay sai khác của Mỹ.

Trước tình hình đó, Mỹ đành quyết định "thay ngựa giữa dòng" để vãn hồi sự ổn định chính trị trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam. Và cũng là để bảo vệ "uy tín", hình ảnh, "thương hiệu", danh dự nước lớn của họ.

Hồ sơ Lầu Năm Góc (The Pentagon Papers - Tên gốc là United States - Vietnam Relations, 1945-1967: A Study Prepared by the Department of Defense, tạm dịch: Quan hệ Mỹ - Việt, 1945-1967: Một nghiên cứu được chuẩn bị bởi Bộ quốc phòng), do chuyên viên phân tích quân sự của Bộ quốc phòng Mỹ và Lầu Năm Góc, sĩ quan Daniel Ellsberg giao cho nhà báo Thời báo New York Neil Sheehan có những đoạn như sau:

"Sự bất mãn với chế độ Diệm đã trở thành cấp bách trong tháng 8 năm 1963. Nhà nước (Hoa Kỳ) ngày 8/21/1963 đã ghi nhận rõ vấn đề này là nghiêm trọng. Chính phủ của Diệm đã xông vào ngôi chùa Phật giáo vào ngày hôm đó. Các vấn đề chưa được giải quyết giữa chính phủ và các nhà sư Phật giáo đã tiếp tục kể từ mùa xuân năm 1963, khi một số tu sĩ, trong đó có Quảng Đức, tự thiêu. Bà Nhu, em dâu của tổng thống, đã nói một cách khinh miệt rằng các nhà sư là "thịt nướng của Phật giáo" và hứa cung cấp thêm xăng. Các hành động đàn áp trong tháng 8 đã cho thấy rằng "Diệm phải đi."

"Tổng thống Kennedy đã nhận được một cuộc họp báo về ngày 27 tháng 8 năm 1963. William Colby, một trong các chuyên gia CIA về Việt Nam, trong một cuộc báo cáo liên quan của 2 vị tướng Việt Nam Cộng hòa ngày hôm trước. Họ đã báo cáo: 'Tình hình cho một cuộc đảo chính là thuận lợi và dự báo nó sẽ kéo dài một tuần.'"

"Trong cuộc họp này, Đại sứ Nolting quan sát thấy rằng 'các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa không có lá gan của Diệm hay Nhu'."

"Hai ngày sau đó, tổng thống (John F. Kennedy) đã gởi một tin nhắn đến Henry Cabot Lodge, Jr, đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam. Tin nhắn đã cho thấy rõ ràng rằng John F. Kennedy đồng ý kế hoạch của các tướng Việt Nam Cộng hòa nhưng bảo lưu quyền, với thẩm quyền của một Tổng tư lệnh, để thay đổi quyết định vào phút cuối cùng."

"Một bản lưu của CIA cho biết đã cố vấn cho nhóm Trần Kim Tuyến cố gắng ám sát Nhu vào ngày 13/9/1963, nhưng đã "thất bại khi các ngòi nổ bị hỏng". Mặc dù vậy, nhóm đã tự tin "cuộc đảo chính cuối cùng sẽ thành công". Mục tiêu, trong số những người khác, là "nhà Ngô"."

Theo bản báo cáo 1034 từ Sài Gòn gởi đến Washington vào ngày 19/9/1963, nằm trong các hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và lưu trữ trong cơ quan NARA của chính phủ Hoa Kỳ, thì:

"Một báo cáo của CIA, chuẩn bị cho tổng thống (Hoa Kỳ) vào ngày 19/9/1963, chỉ ra rằng quân đội và tình báo người Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã chia rẽ quan điểm về vấn đề có nên đảo chính hay không. Trang thứ hai của bản ghi còn cho biết: Nhóm CIA ủng hộ cuộc đảo chính quan tâm nhất đến việc đưa lên một chính phủ mà họ có thể điều khiển, điều đó hợp lý hóa những khoản tiền khổng lồ mà họ đã bỏ ra."

Nữ phóng viên chiến trường Beverly Deepe Keever, trong hồi ký Death Zones and Darling Spies, seven years of Vietnam War reporting (Tử địa và các điệp viên đáng yêu, bảy năm làm phóng sự về Chiến tranh Việt Nam), Đại học Nebraska mới xuất bản năm 2013, đã cho biết: "Khi Lodge (Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge, Jr) đến sân bay Tân Sơn Nhứt, tôi đã cảm nhận thấy ông ta đã quyết định rằng 'Diệm phải đi'."

Tuần báo Newsweek số ra ngày 24/12/2001, trong bài viết về ảnh hưởng của CIA đối với các nhà lãnh đạo trên thế giới, tác giả khi nhắc đến cái chết của Ngô Đình Diệm, đã viết một câu bên cạnh bức hình sau:

Có thể hiểu câu tiếng Anh nói trên như sau: Năm 1963, chính phủ Kennedy đã nhận thấy sự tồn tại của "tổng thống Nam Việt Nam" Ngô Đình Diệm là có lợi cho cộng sản và đã quyết định "Diệm phải đi". CIA đã thực hiện cuộc ám sát kết quả đưa đến cái chết của ông ta vào tháng 11 năm 1963.

Đại tá L. Fletcher Prouty trong sách The secret team: The CIA and its allies in control of the United States and the world (Đội ngũ bí mật: CIA và các đồng minh kiểm soát Hoa Kỳ và thế giới) do Prentice-Hall xuất bản năm 1973 đã cho biết điệp viên CIA, trung tá Lucien Conein đã gặp và trả công tận tay 40.000 USD cho binh lính Sài Gòn đảo chính lật đổ chính quyền Diệm.

Cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, Bruce O. Solheim, giáo sư sử học ở Đại học Citrus, trong sách Vietnam War Era: A Personal Journey (Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam: Một hành trình riêng), do Đại học Nebraska xuất bản năm 2008, đã cho biết: "Với tầm nhìn ngắn, chính phủ John F. Kennedy đã phê duyệt cuộc đảo chính và giết Diệm và Nhu, sự kiện này đưa đến một khoảng trống lãnh đạo ở Nam Việt Nam mà hầu như chưa bao giờ được bù đắp. Người Mỹ đã bước vào và tạo ra một chính quyền con rối lệ thuộc."

Sau khi Mỹ "thay ngựa giữa dòng" và thử nghiệm đưa lên một loạt các nhân tuyển khác nhau và dừng ở cặp bài trùng Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ, quân Giải phóng đã mở chiến dịch tiến công ở miền Đông Nam Bộ, đánh thắng trận Bình Giã, về cơ bản đã làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Đến đây, kế hoạch Staley-Taylor đã không còn hiệu quả. Giới cầm quyền Mỹ bắt đầu đề ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, khi Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ quân xuống Đà Nẵng, kế hoạch Staley-Taylor và chiến lược chiến tranh đặc biệt chính thức chấm dứt. Chiến tranh Mỹ - Việt bước sang giai đoạn mới, giai đoạn Mỹ kéo đại quân đến Việt Nam trực tiếp xâm lược, thực hiện chiến lược tác chiến Tìm và Diệt và chiến lược chiến tranh cục bộ.
"Cố vấn" Mỹ và lính ngụy đang dừng chân nghỉ giải lao. Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, các "cố vấn" Mỹ thực tế không có vai trò của một người cố vấn, tham vấn, tư vấn, mưu sĩ, mà là vai trò của một người chỉ huy về quân sự và cả chính trị (như chính trị viên của VN). "Cố vấn" Mỹ có mặt ở cấp tiểu đoàn ngụy, trong chiến tranh đặc biệt có mặt ở tận cấp đại đội, để chỉ huy, giám sát và kiểm soát.

II.4. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1965-1968)


Chiến tranh cục bộ có nghĩa đây không còn là chiến tranh "đặc biệt" nữa, mà nó đã bùng nổ và chuyển hóa thành một cuộc chiến tranh rộng lớn và toàn diện, không khác một cuộc chiến tranh quy ước có tuyên bố.

Trước đây nó là chiến tranh đặc biệt vì Mỹ đánh mà như không đánh, thay vào đó là tiến hành chiến tranh bằng hình thức chỉ huy Mỹ - thực binh ngụy. Còn lúc này Mỹ đã kéo đại quân vào trực tiếp đánh Việt Nam, và cuộc chiến này đã không còn là "đặc biệt" nữa mà nó đã là một cuộc chiến "chính thức".

Còn "cục bộ" là ý nói cuộc chiến trong phạm vi bán đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á này là một bộ phận thuộc chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ.
Trực thăng Mỹ trên bầu trời Việt Nam.


Theo quan điểm của Việt Nam, các hoạt động thực tế của chiến lược chiến tranh cục bộ là từ năm 1965 đến 1968, lấy dấu mốc năm 1965 khi đại quân Mỹ bắt đầu tràn ngập lãnh thổ Việt Nam và trực tiếp tiến hành chiến tranh, trực tiếp tấn công và trực tiếp thực hiện các chiến dịch và chiến thuật quân sự. Mốc thời gian kết thúc của nó là sau cuộc tổng tiến công và khởi nghĩa xuân Mậu Thân 1968, khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đang diễn ra, và nhất là từ khi Mỹ bắt đầu chính thức thực hiện chiến lược Phi Mỹ hóa - Việt Nam hóa chiến tranh từ năm 1968. Các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam trong nước dựa trên các cơ sở đó để nhận định giai đoạn chiến tranh cục bộ là từ năm 1965 đến 1968.

Theo quan điểm của Hoa Kỳ, giai đoạn chiến tranh cục bộ (joint warfare) là từ năm 1963 đến 1969, lấy dấu mốc năm 1963 khi Mỹ giật dây lật Diệm, thay thế các nhân sự trong ngụy quyền. Mốc thời gian kết thúc của nó là sau khi tổng thống Richard Nixon chính thức nhậm chức từ đầu năm 1969. Tổng thống Nixon cũng là một trong các nhân vật chính đề ra Học thuyết Nixon và chiến lược Phi Mỹ hóa chiến tranh. Một số nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Hoa Kỳ cho rằng giai đoạn chiến tranh cục bộ là từ năm 1963 đến 1969 là xuất phát từ cơ sở đó.
Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson duyệt binh cùng đại tướng William Westmoreland, Tổng tư lệnh liên quân trên chiến trường Việt Nam (1966).

Tướng William Westmoreland, kiến trúc sư của chiến lược Tìm và Diệt, nói chuyện với binh lính gần Biên Hòa (1965).

Năm 1965, trước nguy cơ phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ ồ ạt đem đại quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Trong năm 1965, các sư đoàn 1 Bộ binh (được biết nhiều với tên "Anh cả đỏ" - The Big Red One), sư đoàn 1 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 101 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 3, sư đoàn 25 Bộ binh (được biết nhiều với tên "Tia chớp nhiệt đới" - Tropical Light), trung đoàn 11 Kỵ binh Thiết giáp v.v. kéo vào miền Nam Việt Nam. Trong đó sư đoàn Anh cả đỏ và Tia chớp nhiệt đới là hai trong những sư đoàn chủ lực thiện chiến nhất thế giới.

Hạm đội 7, hạm đội mạnh nhất của Hải quân Hoa Kỳ, được mệnh danh "chúa tể đại dương", tiến vào Biển Đông, xâm phạm vùng biển của Việt Nam, để trợ lực cho các lực lượng xâm lược trên bộ. Hàng vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, đảo Guam thuộc Mỹ.... đều được sử dụng để hỗ trợ cho chiến trường Việt Nam.

Đại tướng William Westmoreland trong hồi ký A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân), do Doubleday xuất bản năm 1976, đã cho biết: "Tôi tin rằng nước Mỹ chưa hề cho ra trận một lực lượng thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969".

Hoa Kỳ còn áp lực được các quốc gia chư hầu (vassal state) khi đó như Hàn Quốc, Philippines, hay đồng minh, đàn em như Australia, Thái Lan và New Zealand gởi quân đội đánh thuê cho Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đổi chác các lợi ích chính trị, quân sự, kinh tế. Lực lượng viễn chinh Mỹ cũng phát triển nhanh, đến cuối năm 1965 nó đã lên gần 20 vạn quân.
Khoảng 12 ngàn lính Thủy quân Lục chiến Mỹ tụ tập xem văn nghệ Noel ở Đà Nẵng (19/12/1967)

Theo hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) do Daniel Ellsberg tung ra và Thời báo New York công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ về Chiến tranh Việt Nam, được Việt Nam Thông Tấn Xã ấn hành một phần bằng tiếng Việt vào năm 1971 (Mỹ chính thức giải mật vào tháng 6 năm 2011), và nhà báo Pháp Giuglaris Marcel, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nhật Bản và vùng Viễn Đông, trong sách Việt Nam, le jour de l’escalade (Việt Nam, ngày đầu leo thang) do NRF xuất bản, thì Vecler, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara: "Không có lý do gì chúng ta lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta". Và những nhân vật diều hâu trong giới cầm quyền Mỹ tin tưởng tuyệt đối rằng: "Cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt Cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc nổi dậy nào cũng có thể bị tiêu diệt".

Mỹ dù không muốn trực tiếp ra tay, nhưng trước tình thế bất lợi họ buộc phải xuất quân để ngăn chặn thế thua, từng bước phản công giành lại quyền chủ động và muốn chuyển bại thành thắng. Việc đưa quân viễn chinh Mỹ vào chiến đấu trên quy mô lớn là không chỉ giới hạn ở việc cứu nguy sự sụp đổ của chế độ thuộc địa kiểu mới mà chính là để giành thắng lợi quyết định, nhanh chóng đảo lộn thế cờ. Theo đó, Mỹ đề ra kế hoạch 3 giai đoạn và dự định giành thắng lợi trong vòng hai năm rưỡi:

  • Giai đoạn 1: Chặn lại đà thất bại, triển khai nhanh lực lượng.
  • Giai đoạn 2: Phản công chiến lược, tấn công mạnh vào chủ lực quân Giải phóng, và cướp lại vùng nông thôn.
  • Giai đoạn 3: Hoàn toàn tiêu diệt chủ lực quân Giải phóng, phá hoại căn cứ và hậu cần, tiếp tục bình định miền Nam.

Trước ý đồ chiến lược mới của Mỹ, Bộ chính trị, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích, đánh giá tình hình và thảo luận tìm đối sách, sau đó đưa ra nhận định, đại ý:

Hiện nay ngụy quân đã thất bại trên chiến trường, ngụy quyền rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, đế quốc Mỹ mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược (nông thôn, đô thị, miền núi). Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc không thể nào khắc phục được. Tiêu biểu là:

  • Mâu thuẫn trầm trọng về tư tưởng chiến lược giữa mục đích muốn giấu mặt áp đặt chủ nghĩa thực dân mới (nghĩa là đứng ngoài làm chủ, bản thân không trực tiếp quản lý, chỉ huy và tham chiến), nhưng lại buộc phải tiến hành chiến tranh bằng đại quân viễn chinh Mỹ theo kiểu chủ nghĩa thực dân cũ (vì ngụy quân không biết đánh, nếu không đem quân vào đánh thì sẽ thua). Như vậy đây là một thất sách về chính trị và làm cho dư luận thế giới thấy rõ như ban ngày là Mỹ đã kéo đại binh vào tấn công Việt Nam, trực tiếp điều hành và tiến hành chiến tranh.
  • Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng lại phải xây dựng cho được chính quyền và quân đội bản xứ để làm công cụ của Mỹ nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới. Trước đó, Mỹ chỉ lo mỗi việc là xây dựng, huấn luyện, trang bị, phát triển ngụy quân và ngụy quyền, và việc này đã rất khó khăn. Trong khi bây giờ chính phủ Washington phải thực hiện cả hai mục tiêu chiến lược này cùng một lúc, khó càng thêm khó.
  • Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chế độ ngụy quyền và hệ thống thuộc địa kiểu mới. Trong khi đó thực tế chiến cuộc cho thấy Mỹ càng tiến hành chiến tranh thì ngụy quyền và ngụy quân càng dựa dẫm vào Mỹ hơn, không còn bao nhiêu động lực chiến đấu, và càng lục đục, chia rẽ khi tranh nhau sự ưu ái của Mỹ. Còn hệ thống thuộc địa kiểu mới thì càng suy yếu và ngày càng hiện rõ những dấu hiệu của một thuộc địa kiểu cũ (người Mỹ và lính Mỹ tràn ngập miền Nam, Mỹ nắm thực quyền về quản lý, chỉ huy, trực tiếp tiến hành chiến tranh). Những thực trạng đó đồng thời cũng kéo theo sự suy yếu của chính Mỹ.

Từ đó, phương châm đấu tranh của Việt Nam được đề ra là: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công chiến lược: Quân sự - chính trị - ngoại giao.

Ngày 20/7/1965, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

"Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".


Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định và tiên đoán:

"Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế."

Nam nữ du kích xã Vĩnh Hưng, Sóc Trăng luyện tập mã tấu dựa trên bài "Song Dao Pháp" của dòng võ Tân Khánh Bà Trà (1960).

Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam lần thứ nhất ở Tây Ninh từ ngày 2 đến ngày 6/5/1965, quân dân Tây Ninh và miền Nam đều có vẻ lo lắng, nghĩ rằng hồi trước đánh ngụy có chỉ huy Mỹ thì còn đánh dễ, nhưng bây giờ Mỹ đã đem hơn 20 vạn quân vào trực tiếp đánh chiếm những vùng giải phóng, trong khi Mỹ là một đại cường quốc, là siêu cường mạnh nhất hành tinh. Mọi người lo lắng hỏi nhau cách đánh Mỹ.

Khi đó Đại tướng Nguyễn Chí Thanh liền nhận định và trấn an, đại ý: Chưa đánh thì làm sao biết cách đánh thắng. Cứ bám thắt lưng địch mà đánh. Cứ đánh Mỹ đi rồi sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ.
Một trung úy Mỹ bị sập bẫy chông của quân Giải phóng (1966)


Tự tin vào ưu thế quân đông (hơn 20 vạn quân), thiện chiến, vũ khí tối tân, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh tiến hành ngay chiến lược tác chiến Tìm và Diệt của Tổng tư lệnh Liên quân, đại tướng William Westmoreland, với cuộc hành quân "Ánh sao sáng" vào căn cứ cách mạng ở Vạn Tường - Quảng Ngãi. Tiếp đó Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng nhiều cuộc hành quân vào "đất thánh Việt Cộng" như chiến khu Đ, chiến khu C (chiến khu Dương Minh Châu), và các chiến khu, địa điểm khác.

Nhưng nhờ chiến đấu dũng cảm, thông thạo địa hình (đó chính là quê nhà của họ), và tài mưu trí sáng tạo, cũng như được sự phối hợp chiến đấu và tiếp viện ngày càng lớn từ miền Bắc, quân dân miền Nam đã chiến đấu giành thắng lợi mở đầu ở Vạn Tường (ngày 18/8/1965). Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực quân Giải phóng lúc đó đang đóng ở Vạn Tường, cùng với du kích xã và quân dân địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của giặc Mỹ, diệt gần 1 ngàn lính, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Ảnh minh họa: Quân đội Mỹ tấn công khu vực Tam Giác Sắt trong chiến dịch Attleboro (1966)
Năm 1966, Bộ tư lệnh Lực lượng Dã chiến 2 của Mỹ huy động 19 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1, lữ đoàn 173 nhảy dù, 2 lữ đoàn của sư đoàn 4 và sư đoàn 25, và 1 chiến đoàn đặc nhiệm trực thuộc quân đoàn 3 ngụy, mở chiến dịch Attleboro đánh vào khu vực Tam Giác Sắt mà họ thường gọi là một trong những "đất thánh Việt Cộng" hoặc "đất thánh cộng sản", với trọng điểm là chiến khu Dương Minh Châu (chiến khu C), một trong những đầu não của cách mạng miền Nam.

Tam Giác Sắt là một khu vực rộng 155 km² nằm giữa sông Sài Gòn và đường 13, khoảng 40 km phía bắc trung tâm Sài Gòn, bao gồm địa đạo Củ Chi và hệ thống mật khu vòng đai kiên cố như Hố Bò, Bời Lời, Long Nguyên.... Về lực lượng Việt Nam tham chiến chống Mỹ trong chiến dịch này, theo các nguồn của Mỹ là bao gồm các trung đoàn 101, 271, 272 và 273.
Binh lính Mỹ truy lùng nơi trú ẩn của quân Giải phóng trong một khu rừng chỉ cách 40 cây số phía đông bắc Sài Gòn (1965)
Quân đội Mỹ-ngụy trong chiến dịch này đặt dưới quyền chỉ huy của hai tướng Guy S. Meloy, Jr. và William E. DePuy, là hai tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường trong Thế chiến II. Mục tiêu chính của cuộc hành quân là diệt bộ phận đầu não quân sự và chính trị của Trung ương cục miền Nam.

Sau hơn hai tháng giằng co, giao chiến ác liệt, lực lượng Việt Nam bị tổn thất khá nặng và bị đẩy lùi ra khỏi trận địa. Sau trận này, lực lượng Việt Nam đã rút lui về bên kia biên giới Việt Nam - Campuchia.
Quân Mỹ hành quân trên sông Mỹ Tho, một nhánh của đồng bằng sông Cửu Long, chỉ cách phía tây nam Sài Gòn 35 cây số (1968).

Tàu tuần tra Mỹ càn quét vùng sông ngòi nông thôn

Mặc dù bị tổn thất, bị đẩy lui và thua về chiến thuật, nhưng ban chỉ huy đầu não của Mặt Trận đã kịp thời rút về bên kia biên giới Campuchia, tránh được tổn thất. Như vậy Mỹ không đạt được mục tiêu đề ra, do đó trong chiến dịch này họ chỉ giành thắng lợi chiến thuật nhưng không giành được thắng lợi chiến lược và thắng lợi quyết định.

Một trong những mục tiêu chính khác của Mỹ trong chiến dịch này là tìm cách kéo được quân Giải phóng ra đánh một trận lớn để gây tổn thương nguyên khí thật nặng, nhưng ý đồ đó của họ đã bị phía Việt Nam nhận ra nên đã tận dụng sự thông thạo địa hình mà tác chiến linh hoạt theo chiến tranh du kích, tránh đánh lớn, và khiến cho ý đồ đó bất thành.
Ảnh minh họa: Quân đội Hoa Kỳ tấn công khu vực Tam Giác Sắt trong chiến dịch Cedar Falls (1967)
Năm 1967, Mỹ-ngụy mở chiến dịch Cedar Falls, kéo gần 3 vạn quân tiếp tục đánh vào cái gai trong mắt lâu ngày khó nhổ của họ: Khu vực Tam Giác Sắt. Lần này quân Giải phóng đổi chiến lược, phân tán rút vào rừng và ẩn thân trong hệ thống địa đạo. Trong chiến dịch này, "lính chuột cống" (Tunnel Rat) được sử dụng lần đầu tiên để xâm nhập hầm trú ẩn và hệ thống công sự ngầm của quân Giải phóng.

Sau gần 1 tháng giằng co, mặc dù đã phá hủy nhiều đoạn công sự của Việt Nam, nhưng mục tiêu Hoa Kỳ đặt ra về cơ bản đã không đạt được. Trong khi đó, việc bảo vệ an toàn phần lớn căn cứ có thể coi là một thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhờ vào hệ thống địa đạo có quy mô rộng lớn và tổ chức tinh vi, người Việt Nam không cần mất nhiều công sức để bày binh bố trận hay tổ chức những trận đánh lớn đầy rủi ro, mà phía Mỹ vẫn phải rút quân, vì không rút quân thì cũng chết dần mòn mà không làm gì được.

Trước chiến dịch này còn có một cuộc hành quân khác của quân đội Mỹ nhằm vào vùng Củ Chi cũng với các mục tiêu quân sự tương tự và đã chịu thất bại theo cách tương tự, đó là chiến dịch Crimp năm 1966.

Nói chung, qua nhiều chiến dịch và trận đánh, hai phía đối địch đều có thắng, có bại và trong nhiều trận cả hai bên đều tổn thất nặng. Nhưng về cơ bản Việt Nam đã giành chiến thắng quan trọng trước hai cuộc tấn công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ. Quân Việt đã chặn đứng và đánh lui hàng loạt cuộc hành quân bình định, Tìm và Diệt của Mỹ vào những khu vực họ gọi là "đất thánh Việt Cộng" (những vùng giải phóng ở Tây Ninh, Long An, Bình Dương, Củ Chi).

Về chính trị, ở hầu khắp các vùng nông thôn, nông dân được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đấu tranh chống kìm kẹp, phá Ấp chiến lược. Trong hầu hết các thành phố ở miền Nam, công nhân, học sinh, sinh viên, Phật tử đều đấu tranh đòi Mỹ rút về nước, bất chấp bị đàn áp liên tục bằng dùi cui, roi điện, hơi độc, súng đạn.

Vào ngày Phật Đản thứ 2511, 8 tháng 4 âm lịch năm Đinh Mùi (16 tháng 5 năm 1967 dương lịch), nữ sĩ Nhất Chi Mai, tên thật Phan Thị Mai, tự Nhất Chi, pháp danh Thích nữ Diệu Huỳnh, là một nữ Phật tử đã noi gương Bồ tát Thích Quảng Đức, tự thiêu ở Sài Gòn để phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam, bà đã tự thiêu trước sân chùa Tư Nghiêm (nay thuộc Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Trước khi tự thiêu, bà đã để lại 10 bức di thư với nội dung kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh, trong đó có bài:

Chấp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu?
Sao thế giới biểu tình?
Sao Việt Nam im tiếng?
Không dám nói Hòa Bình?
Tôi thấy mình hèn yếu!
Tôi nghe lòng đắng cay!
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời!
Hòa bình là có tội!
Hòa Bình là Cộng sản!
Tôi vì lòng nhân bản,
Mà muốn nói Hòa Bình.
Chấp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết!
Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi!
Hai chục năm hơn rồi,
Nhiều máu xương đã đổ,
Đừng diệt chủng dân tôi!
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chấp tay tôi quỳ xuống.

Sau này bút danh Nhất Chi Mai của bà đã được đặt cho một con đường nằm ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Sau bao nhiêu tổn thất, đau thương trong các chiến dịch quân sự kết hợp với phong trào đấu tranh nông thôn và đấu tranh đô thị, kết quả là giặc xâm lược đã từng bước thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ, thêm nhiều khu vực, địa điểm ở miền Nam được giải phóng.

Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đến cuối năm 1967, cương lĩnh của Mặt Trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức có tính chất khu vực lên tiếng chính thức ủng hộ.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của tổng thống Lyndon B. Johnson đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Tình hình miền Nam lúc đó như McNamara đánh giá là: "Một bức tranh ảm đạm, đau đớn đến tột cùng. Nhưng khi đó, tôi không thấy cách gì tốt hơn". và "Các chính sách và chương trình của Mỹ ở Đông Dương đã phát triển theo một hướng mà chúng ta đã không lường trước được.... và sự thiệt hại về người, chính trị, xã hội và kinh tế là không thể tưởng tượng được. Chúng ta đã thất bại".

II.4A. Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân


Cuộc tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân là một chiến dịch quân sự rộng lớn được phát triển từ Kế hoạch X, vốn đã được khởi động từ cuối giai đoạn chiến tranh đặc biệt. Kế hoạch X là một kế hoạch tuyệt mật. Sau này theo các thông tin tiết lộ ra từ một số tướng lĩnh trên phim tài liệu "Mậu Thân 1968" của hãng phim Bản Sắc Việt và Đài truyền hình Việt Nam, và một số phim tài liệu cũng như nguồn khác, thì Kế hoạch X nói chung là một kế hoạch đột kích bất ngờ, một cách đánh mới để làm thay đổi tình hình và cục diện chiến tranh, mà đích nhắm chủ yếu là ở ngay trung tâm đầu não của giặc.
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và
chủ tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội, 1966)

Sau khi Mỹ đã kéo đại quân vào trực tiếp tấn công Việt Nam, tinh binh Mỹ lên tới gần 60 vạn, tổng số quân (bao gồm ngụy và chư hầu) là hơn 1 triệu, Bộ chính trị, chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp và bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã xác định rằng không thể giành thắng lợi quyết định bằng những cách đánh thông thường, Bộ chính trị cho rằng phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn.

Tuy nhiên so sánh tương quan quân đội Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ về quân số và vũ khí đều thua kém gấp nhiều lần, nên việc đánh để tiêu diệt quân đội Mỹ là điều gần như không thể thực hiện. Do đó Bộ chính trị chủ trương: "Phải tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ".

Như vậy, có thể thấy mục tiêu chiến lược của Việt Nam là đánh vào ý chí xâm lược của Mỹ. Đại tá Vũ Ba, nguyên cán bộ tham mưu Miền, trong phim tài liệu "Mậu Thân 1968" của nữ đạo diễn Lê Phong Lan, phát sóng trên Đài truyền hình Việt Nam năm 2012-2013, đã cho biết thêm về vấn đề chọn đúng thời điểm để đánh: "Thời cơ lịch sử có thể xảy ra trước hoặc sau năm 1968. Nhưng chắc chắn nó phải rơi vào đúng thời điểm sức mạnh và quân số Mỹ có mặt ở miền Nam lên đến đỉnh điểm nhưng họ không thể giành được thắng lợi quyết định. Và thời điểm đó chính là Mậu Thân 1968. Lúc đó, tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật của Mỹ gấp 800 lần Việt Nam."

Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của chủ tịch Hồ Chí Minh sa sút, nên phải gác lại công việc và đi Trung Quốc chữa bệnh. Tuy nhiên với bề dày kinh nghiệm, uy tín to lớn trong Đảng và nhân dân, mọi quyết sách lớn vẫn phải được phê duyệt bởi Hồ chủ tịch. Do đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một chuyến về nước ngắn để nghe Quân ủy Trung ương trình bày kế hoạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý những điểm sau:

  • Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan không.
  • Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ý đánh lâu dài.
  • Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đảm.
  • Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ý đến việc giữ sức dân.
  • Phải chú ý mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kích.
  • Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục, đánh được lâu dài (nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài).


Chấp hành chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, ngày 25/10/1967, Trung ương Cục miền Nam đã ra Nghị quyết Quang Trung để hiện thực hóa chủ trương này, noi gương chiến công xuân Kỷ Dậu 1789 của thiên tài quân sự Quang Trung Nguyễn Huệ. Khu trọng điểm chiến lược lâm thời được thành lập gồm Sài Gòn - Gia Định, một phần đất của các tỉnh tiếp giáp với Sài Gòn và các vùng thuộc miền Đông Nam Bộ.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (ngày mồng một Tết Mậu Thân). Suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, quân dân miền Nam bất ngờ tiến công và phát động nổi dậy rộng khắp ở 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, giải phóng một số nơi, đánh sập bộ máy ngụy quyền cơ sở ở nông thôn. Hiệu lệnh phát động chiến dịch chính là bài thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh phát đi trên sóng phát thanh:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.

Khi đó Hoa Kỳ về cơ bản đã trúng kế "nghi binh Khe Sanh", bị thu hút vào đòn nghi binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Khe Sanh, nơi được các giới chức quân sự Mỹ kỳ vọng là một thế trận "Điện Biên Phủ đảo ngược" với kết quả chiến thắng dành cho quân đội viễn chinh theo đúng kịch bản chiến tranh quy ước.

Theo Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), trong các báo cáo do điệp viên Phạm Xuân Ẩn chuyển về, từ cấp chỉ huy cho đến viên đại sứ Mỹ, tất cả đều không tin Bắc Việt và Việt Cộng có đủ sức tấn công vào đô thị và các thành phố lớn. Theo Mỹ, chiến trường chính nhất định sẽ diễn ra ở Khe Sanh.

Ông Tư Cang còn cho biết thêm: "Trung ương cục miền Nam còn làm bộ để rơi những tài liệu vào tay Mỹ để họ tin rằng mình sẽ đánh mạnh trên vùng giới tuyến, nhất là Khe Sanh".

Đại tá Hồ Khang, một trong những người biên soạn sách "Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975" do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản, khi trả lời phỏng vấn trong phim tài liệu "Mậu Thân 1968" của hãng phim Bản Sắc Việt, đã cho biết: "Cái từ 'Điện Biên Phủ' xuất hiện trong tư duy của phía Mỹ mà Cục 2 (tình báo) báo cáo lại chính là một gợi ý để chúng ta tương kế tựu kế thực hiện một 'Điện Biên Phủ giả vờ' để lừa đối phương, ghìm chặt Mỹ ở chiến trường rừng núi, tạo điều kiện cho đòn tấn công vào các đô thị. Vì vậy sau này phía Mỹ và phương Tây cho rằng Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh".

Đến mùa khô thứ ba, khi Mỹ chưa kịp ra tay và tập trung chú ý vào căn cứ Khe Sanh đang bị vây hãm thì cuộc tổng tấn công và nổi dậy đã nổ ra trên hầu hết các đô thị miền Nam.

Đây là đòn chiến lược bất ngờ làm rung chuyển toàn nước Mỹ. Đại tướng tổng tư lệnh liên quân William Westmoreland bị cách chức. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara từ chức. Tổng thống Lyndon B. Johnson phải tạm ngừng ném bom miền Bắc, Washington chấp nhận vào bàn đàm phán với Hà Nội tại hội nghị Paris về Việt Nam.

Nhà sử học, chuyên gia Việt Nam học Merle L. Pribbenow II trong sách General Vo Nguyen Giap and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tet Offensive (Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí mật của kế hoạch Tết Mậu Thân 1968), do ngành Việt Nam học của Đại học California xuất bản năm 2008, đã nhận định: "Cuộc tấn công Tết Mậu Thân có lẽ là sự kiện có sức nảy nở lớn nhất trong lịch sử cuộc chiến dài dặc của Mỹ tại Việt Nam. Đây là một thời điểm bước ngoặt trong cuộc chiến, một thời điểm kể từ đó không có đường lùi nữa. Chiến lược gia quân sự Trung Quốc cổ đại Tôn Tử viết: Nước lũ cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ; Chim ưng vồ mồi xé nát con mồi, đó là nhờ thế tiết nhanh chớp nhoáng. Trong quyết định tung cuộc Tổng tiến công Tết, quân Giải phóng đã làm theo lời chỉ dạy của Tôn Tử. Họ đã sử dụng sự 'biến hóa', và 'thế tiết' của họ là hoàn hảo."

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài tham luận "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử" trong hội thảo sử học "Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam" do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15/4/2005 đã ghi nhận: "Cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một sáng tạo quân sự độc đáo, tạo ra bước ngoặt cơ bản làm thay đổi cục diện chiến tranh, mở ra quá trình 'xuống thang chiến tranh' của đế quốc Mỹ. Chúng ta đã đánh bại một bước ý chí xâm lược của Mỹ trong lúc quân Mỹ đông nhất, mạnh nhất và những cố gắng chiến tranh cao nhất. Chiến lược 'chiến tranh cục bộ' bị phá sản, chính quyền Mỹ phải 'phi Mỹ hóa' - 'Việt Nam hóa chiến tranh'."

Nhưng ông cũng phê bình: "Lại do chủ quan duy ý chí, không nắm vững quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng nên đã chủ trương tiến hành tổng khởi nghĩa, bộc lộ toàn bộ cơ sở cách mạng của quần chúng trong chiến tranh ngay khi trên chiến trường còn hơn một triệu quân Mỹ - ngụy và các nước chư hầu. Việc tiếp tục kéo dài tấn công vào các đô thị, chậm chuyển hướng hoạt động về nông thôn trong Mậu Thân 1968 đã gây ra nhiều tổn thất về thế và lực cho cách mạng".

Miền Nam tổng nổi dậy năm 1968

II.4A-1. Mặt trận Sài Gòn

Tuy cuộc tiến công và khởi nghĩa diễn ra trên toàn miền, nhưng trọng điểm chiến sự là ở Sài Gòn và Huế. Quân cách mạng đã giữ được một thành phố lớn như Huế gần 1 tháng, sự kiện chấn động này đã lên hầu hết các mặt báo quốc tế, như một cái tát thách thức uy thế Hoa Kỳ, làm tổn thương uy danh nước Mỹ.

Những hình ảnh chiến cuộc ở Sài Gòn thì đã được ghi vào những thước phim của các phóng viên chiến trường quốc tế, và những phóng viên gan dạ đó đã đưa hình ảnh khốc liệt của chiến tranh vào từng căn hộ Mỹ và thế giới. Nó vô tình làm cho cho cả thế giới thấy sự chiến đấu can trường của quân dân Việt Nam, sự tàn ác của Mỹ-ngụy khi xử bắn tù binh ngoài đường, sự bất lực của "đội quân vô địch" Hoa Kỳ, sự vô dụng, rệu rã của các lính kiểng ngụy quân ở đô thị Sài Gòn.

Chứng kiến sự bó tay của quân Mỹ và sự bất lực của quân ngụy, để cho lực lượng biệt động Sài Gòn đánh thẳng vào các mục tiêu khó tin nhất như Tòa đại sứ Mỹ, Dinh tổng thống ngụy, Đài phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, các đại biểu Quốc hội Mỹ, các thành viên Chính phủ Mỹ càng ngao ngán hơn, ý chí xâm lược và niềm tin chiến thắng càng lung lay hơn.

Nhưng để có được một Mậu Thân lịch sử, để có được kết quả đó ở Sài Gòn thì vai trò của quân và dân Củ Chi là rất lớn. Quân dân du kích Củ Chi đã dốc toàn lực trợ giúp các chiến sĩ biệt động đánh thẳng các cơ quan đầu não của Mỹ tại Sài Gòn.

Trước đó 1 ngày đã diễn ra đêm văn nghệ Tết Quang Trung trước giờ G ở Sài Gòn, thu hút hơn 20.000 khán giả đứng ngồi chật chội không còn chỗ nào, được các thành viên cách mạng trong phong trào đấu tranh đô thị ở Sài Gòn tổ chức để ngầm gởi lên thông điệp chống ngoại xâm giữa lúc gần 60 vạn quân Mỹ đang hoành hành khắp miền Nam. Lá cờ Quang Trung (cờ đỏ mặt trời vàng) nhìn xa làm cho khán giả liên tưởng đến lá quốc kỳ cờ đỏ sao vàng. Những cô gái Sài Gòn đi tải đạn, những cụ hòa thượng, những nhà sư già khuân vác vũ khí vào thành theo truyền thống nhà Phật góp phần giữ nước bảo vệ giang sơn xã tắc.

Có những bà má tặng cho kháng chiến, cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước những đứa con cuối cùng của mình. Rồi chính những bà má cũng không ngồi không, mà góp phần xách giỏ rau (súng ở dưới, rau ở trên) vào thành.

Nếu không có dân, không có sự ủng hộ gần như tuyệt đối của người dân Sài Gòn và cả Gia Định, Chợ Lớn, thì chắc chắn không có trận Mậu Thân ở Sài Gòn. Bởi vì nếu không có dân thì không thể nào vận chuyển vũ khí đạn dược vào thành. Đây là những trận đánh quyết tử nên cũng chẳng có chuẩn bị hậu cần, y tế gì cả. Chuyện ăn chuyện ở và thương binh đều do dân giải quyết và chăm sóc, quân trốn trong nhà dân.

Ngay đêm tiến công đầu tiên ở Sài Gòn các đội biệt động cảm tử đã đánh thẳng vào các mục tiêu khó tin nhất: Tòa Đại sứ quán Hoa Kỳ, dinh tổng thống ngụy quyền, đài phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất.... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham chiến.

Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn cho cả thế giới và gây chấn động dư luận quốc tế, và cho thấy sự bất lực của hệ thống tình báo CIA ở Việt Nam, họ đã không tiên liệu được khả năng, tính chất cũng như thời điểm, quy mô của chiến dịch.

Lịch sử đôi khi là những chuỗi sự kiện tái hiện đi tái hiện lại. Tháng 9 năm 1413, trong cuộc kháng chiến chống Minh lần thứ 2 (nhà Hậu Trần lãnh đạo), quân Việt do tướng Đặng Dung chỉ huy đã đột kích đánh úp thủy trại của quân Minh ở Hóa Châu với mục đích "cầm tướng", muốn bắt sống Trương Phụ, chủ tướng nhà Minh. Quân của Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định bắt sống nhưng ông ta đi thuyền nhỏ trốn thoát được.

Ngày 30/1/1968, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lịch sử đã tái hiện ở tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Đúc kết kinh nghiệm đánh giặc của cha ông, Đội biệt động số 11 do đội trưởng Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy đã đột kích đánh úp Tòa đại sứ. Mục tiêu cao nhất đề ra trong trận đánh này là phải bắt sống Đại sứ Ellsworth Bunker, người được xem là một dạng thái thú, quan toàn quyền kiểu mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Sau khi diệt các quân cảnh Mỹ gác ở cổng, lực lượng biệt động dùng thuốc nổ phá hủy tường, tiến đánh vào trong và đã đột nhập lên được tầng 3 và phòng của Bunker định bắt sống nhưng ông ta đã đi xe bọc thép trốn thoát sang một hầm bí mật ở một địa điểm khác.

Gần nửa giờ sau khi Đại sứ quán bị đánh úp bất ngờ, một toán quân Mỹ đến cứu viện, nhưng bị lực lượng biệt động bắn chặn nên không vào được cổng chính. Bảy giờ sáng ngày 30/1/1968, một trung đội Mỹ lọt được vào cổng chính. Cuộc hỗn chiến trong sứ quán diễn ra quyết liệt.

Chín giờ sáng, quân Mỹ đổ được một bộ phận lực lượng sư đoàn Dù 101 xuống sân thượng Tòa đại sứ. Lực lượng biệt động Sài Gòn Đội 11 đã dũng cảm chiến đấu đến người cuối cùng. Trận đánh Tòa đại sứ Mỹ kết thúc, đội trưởng Ngô Thành Vân bị thương và sa vào tay giặc, tất cả chiến sĩ biệt động khác đều hy sinh. Quân Mỹ cũng bị thương vong nặng: 22 lính chết và 124 bị thương.

Việc quân Giải phóng đánh chiếm và làm chủ Tòa đại sứ Mỹ tới hơn 6 giờ đã gây một tiếng vang lớn, làm chấn động nước Mỹ và thế giới. Tất cả các cấp chỉ huy quân sự, ngoại giao ở Sài Gòn và cả nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt.

Đại tướng William Westmoreland trong hồi ký A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân), do Doubleday xuất bản năm 1976, đã thuật lại những gì ông chứng kiến: "Khu sứ quán thật là hỗn độn, xác người Mỹ và người Việt Nam vẫn nằm ngổn ngang. Nhưng không giống như hầu hết các chiến trường, các nhà báo, các nhà quay phim vô tuyến truyền hình Mỹ hình như có mặt khắp mọi nơi. Nét mặt họ ánh lên nỗi buồn bực và tâm trạng không tin nổi, như thể ngày tận thế đã đến rồi". Westmoreland sau đó vội báo cáo với tổng thống Lyndon B. Johnson rằng ông ta đã "làm chủ tình hình", nhưng Johnson đã nói chua chát: "Việt Cộng đã đi dạo mát trong sứ quán của ta rồi".

Cùng ngày tại Dinh tổng thống ngụy, đội Biệt động số 5 do đội trưởng Tô Hoài Thanh (Ba Thanh) chỉ huy gồm 15 người xuất phát từ hai hướng tiến thẳng vào. Năm chiến sĩ trèo qua tường rào, tấn công vào trong dinh và hy sinh tại chỗ. Bên ngoài, 3 xe viện binh Mỹ chạy đến đã bị đội Biệt động tiêu diệt. Gần sáng, không thấy viện binh, những chiến sĩ Biệt động còn sống sót rút vào một cao ốc đang xây dở cạnh đó tử thủ, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của quân đội Mỹ nhưng mất thêm một người. Gần sáng mùng 3 Tết, lợi dụng những lỗ hổng trên tường do đạn bắn, 7 người còn lại dìu nhau thoát ra đường Thủ Khoa Huân. Đến sáng thì nhóm bị bao vây, còn quả lựu đạn cuối cùng các chiến sĩ định rút chốt chết chung với giặc nhưng không nổ, 7 người sa vào tay giặc.

Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 4 (cụm 1) do đội trưởng Nguyễn Văn Tăng chỉ huy, sau vài phút chiến đấu đã chiếm được đài, loại khỏi vòng chiến đấu một trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ. Nhưng nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh đã bị ngăn chặn ở Phú Thọ Hoà không đến kịp nên ý muốn dùng Đài phát thanh để kêu gọi, trấn an, và gây tiếng vang dư luận không thực hiện được.

Nhận rõ vị trí quan trọng của Đài phát thanh, ngay sau khi đài bị mất, quân Mỹ đã dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích. Sau đó quân Mỹ đã bao vây toàn khu vực. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động còn sống sót quyết định cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc đài phát thanh. Lực lượng biệt động hầu hết đều hy sinh, chỉ còn 2 người sống sót.

Tại khu vực Bộ Tổng tham mưu quân ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất, cụm biệt động 2 (gồm các đội 6, 7, 9) do Đỗ Tấn Phong chỉ huy đánh vào cổng 5 Bộ Tổng tham mưu và cổng Phi Long (sân bay Tân Sơn Nhất). Sau ít phút tiến công, đội chiếm được cả hai cổng. Sau đó quân đội Mỹ-ngụy phản kích, sau gần một ngày chiến đấu quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều lính giặc, bắn cháy hai xe bọc thép. Đến 14 giờ ngày 30/1/1968, do bị tổn thất và hết đạn, những người còn lại của cụm biệt động phải rút quân.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy, 16 chiến sĩ Đội biệt động số 3 (Cụm 1) do đội trưởng Trần Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy dùng hai xe du lịch đưa lực lượng đến trước mục tiêu. Sau khi diệt hai lính gác ở đầu cầu Cửu Long, biệt động đánh bộc phá mở cửa và đột nhập vào bên trong, nhưng bị hỏa lực ngăn chặn mạnh, không phát triển được. Các chiến sĩ Biệt động chiến đấu cho đến khi hy sinh gần hết, chỉ còn hai người về được căn cứ và Phân khu 4.

Đêm 17/2/1968, trung đoàn 96 và 208 ĐKB pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, Nha cảnh sát đô thành, căn cứ sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ ở Phú Lợi. Trong số 88 quân nhân Mỹ thuộc lực lượng tuần giang Cửu Long chờ máy bay về Mỹ, số đông bị chết, sáu máy bay bị phá hủy.

II.4A-2. Mặt trận Huế

Cũng vào ngày 30/1/1968, pháo binh quân Giải phóng đồng loạt pháo kích các mục tiêu quân sự của giặc, mở đầu cho cuộc tấn công vào nội đô Huế. Sau loạt pháo mở màn, lực lượng quân Giải phóng trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40 mục tiêu trong và ngoài thành Huế.

Đại đội 1 (thuộc Tiểu đoàn 12 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh vào Mang Cá. Trong lúc đánh Mang Cá thì Đại đội 2 (Tiểu đoàn 12 đặc công) phối hợp với Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh chiếm sân bay Tây Lộc. Được cơ sở bên trong hỗ trợ, một bộ phận đánh sân bay bí mật đột nhập qua cổng Thủy Quan, nhanh chóng theo sông Ngự Hà vào chiếm góc tây nam sân bay, phá hủy 20 máy bay và một số xe quân sự.

Tại khu Đại Nội, Cột Cờ, Đại đội 4 đột phá cửa Hữu, dùng một mũi thọc sâu nhanh chóng chiếm khu Cột Cờ lúc 4 giờ 30 phút. Còn lại đại bộ phận của Đại đội 4 cùng Đại đội 3 theo đường Yết Kiêu, Lê Huân đánh vào khu Đại Nội. Đến 5 giờ sáng quân Giải phóng chiếm toàn bộ khu Đại Nội. Tám giờ sáng, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trên cột cờ báo hiệu đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Đến ngày 2, quân Giải phóng đã giành quyền kiểm soát phần lớn Huế.

Nhìn chung, trong những ngày đầu tổng tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế, quân Giải phóng đánh chiếm được một số mục tiêu chủ yếu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở nhiều nơi. Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình và Ủy ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế ra mắt đồng bào. Hãng tin Pháp AFP ngày 7/2/1968 đã bình luận: "Rõ ràng họ (MTDTGPMNVN) có một tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này vì họ có thể huy động rất nhiều người ra làm việc cho họ".

Sau những thất bại ban đầu, từ ngày 8/2/1968, quân Mỹ bắt đầu phản kích dữ dội. Mỹ huy động cả viện binh từ lực lượng tổng trừ bị ngụy từ Sài Gòn ra đánh giúp. Từ ngày 9/2 đến 12/2, hai phía Mỹ - Việt giao tranh quyết liệt tại 4 cổng thành (Chánh Tây, cửa Hữu, Thượng Tứ, Đông Ba) và từ quốc lộ 1 vào An Hòa.

Ngày 17/2, quân Mỹ chiếm được Đông Ba. Ngày 18/2, quân Mỹ chiếm cổng Thủy Quan, uy hiếp cửa Hữu, cửa An Hòa và cửa Thượng Tứ. Lực lượng quân Giải phóng bị đẩy lùi dần vào trong thành nội.

Ngay sau đó, Mỹ ồ ạt tăng quân lên 23 tiểu đoàn nhằm giành lại thành Huế. Sức ép của quân Mỹ ngày càng tăng. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị vây kín, ngày 22/2/1968, Khu ủy Trị - Thiên và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng ra ngoài thành phố.

Sau 25 ngày chiến đấu, quân Mỹ-ngụy có hơn 4.400 thương vong, quân Giải phóng cũng có hơn 4.000 thương vong. Với việc giữ được thành phố gần 1 tháng, quân Giải phóng tại Huế đã tạo thành công lớn và giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung về chính trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền.

Trong 25 ngày chiến đấu, quân Mỹ dùng pháo hạm và máy bay ném bom, pháo kích suốt ngày và đêm. Các loại vũ khí sát thương hàng loạt như bom napalm, pháo không giật 107mm bắn đạn tổ ong (mỗi viên khi nổ sẽ văng ra gần 5 vạn mảnh đinh sát thương), đạn pháo tăng, súng phun lửa v.v. được sử dụng tối đa, gây thương vong lớn cho dân thường. Theo thống kê của nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabriel Kolko, tác giả cuốn sách Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc Chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) do NXB Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, thì sau 25 ngày chiến sự, 80% khu vực dân sự ở Huế đã bị bom đạn Mỹ phá hủy, hàng ngàn thường dân cũng chết trong các cuộc giao tranh. Những hình ảnh tàn phá ghê gớm tại Huế được trình chiếu trên TV trong từng ngôi nhà Mỹ đã góp phần lớn nhất thúc đẩy tâm lý phản chiến của người Mỹ.

Sau trận chiến 25 ngày, Mỹ-ngụy trong sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều người ở Huế gọi là sự kiện "Hậu Mậu Thân" đã lùng sục trả thù, giết hại, bất cứ người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, cũng đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã tẩy trắng Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên quốc tế vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù, trả đũa người dân quy mô lớn.

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ trả thù, tàn sát, những chiến binh Giải phóng, những lính ngụy, những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi tuyên truyền giả dối đó là "nạn nhân thảm sát của Việt Cộng", thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành "hành quyết", "chôn sống", con số thì có những bài báo phóng đại lên đến "hàng triệu".

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-ngụy ngăn cấm tất cả phóng viên quốc tế nào muốn vào Huế kiểm chứng các "hố chôn tập thể". Sau khi dàn dựng một thời gian, họ cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào "đưa tin", "làm phóng sự", rồi sau đó mới cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Mỹ-ngụy làm vậy là để đánh đòn tâm lý chiến, làm át đi tiếng vang chiến công của Mặt Trận, át đi sự thất bại làm chấn động cả miền Nam, làm át đi âm vang, dư âm, dư luận của sự kiện Mậu Thân 1968 khi toàn miền Nam đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa.
Quân Mỹ chịu tổn thất nặng nề sau 5 ngày tuần tra trong một khu rừng ở Huế (1968).

II.4A-3. Tấn công và nổi dậy đợt 2

Sau khi William Westmoreland bị cách chức, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc giao cho đại tướng Creighton Abrams làm Tổng tư lệnh lực lượng liên quân ở Nam Việt Nam. Để thực hiện chiến lược Quét và Giữ có hiệu quả, giữa tháng 4/1968, Clark Clifford, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam thực thi 3 biện pháp cấp bách:

  • Xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở trong và xung quanh các thành phố, các căn cứ, các tiểu khu, chi khu quân sự các điểm chốt trên các trục đường giao thông.
  • Lập những vành đai đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công mới của quân Giải phóng. Đẩy chiến tranh ra xa các thành phố, thị xã quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
  • Mở các cuộc hành quân càn quét để giải tỏa các thành thị, căn cứ, đường giao thông, ngăn chặn bước tiến của quân Giải phóng.
Song song với đó, tổng thống Mỹ Johnson, Đại sứ Bunker ra sức tuyên truyền cứu vớt hình ảnh chính trị trong dư luận Mỹ và thế giới vốn đang lên án mạnh mẽ. Các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế ngày đêm phát đi những tuyên bố của những nhà lãnh đạo Mỹ rằng: "Việt Cộng và Bắc Việt Nam đã bị Mỹ và đồng minh truy kích; Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã nắm quyền chủ động chiến trường; Việt Cộng đã đuối sức, hết hơi." để xoa dịu làn sóng đấu tranh phản chiến của nhân dân Mỹ và những chất vấn của Quốc hội.

Cuối tháng 3/1968, sau khi sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, Trung ương Cục và Quân ủy Miền cử đại diện ra Hà Nội báo cáo và đề nghị cho quân dân miền Đông Nam Bộ tiếp tục mở đợt 2 đánh vào Sài Gòn với lý do: "Yếu tố bất ngờ vẫn còn, mặc dù địch đã co về phòng giữ nội thành và vùng ven, nhưng chúng còn nhiều sơ hở, đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, một số đội biệt động, du kích mật và quần chúng. Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động vẫn còn sung sức, quyết tâm lập công cao... Nếu ta khắc phục được khuyết điểm trong đợt 1 thì sức đột kích trong đợt 2 sẽ mạnh hơn nhiều và sẽ là một bất ngờ mới đối với địch."

Ngày 5/5/1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trên toàn Miền đã nổ ra. Trong tuần lễ đầu, quân Giải phóng đánh trúng 89 thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ căn cứ Mỹ-ngụy từ Trị - Thiên đến Cà Mau, từ đồng bằng ven biển đến Tây Nguyên.

Trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, từ hướng tiến công chủ yếu phía tây thành phố, Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 267, 269, tiểu đoàn 6 Bình Tân do trung đoàn trưởng Võ Văn Hoàng chỉ huy tiến công cụm radar Phú Lâm, phát triển vào Cầu Tre, tập kích đánh tiêu hao một tiểu đoàn Biệt động quân ngụy, phát triển đánh chiếm khu vực đường Minh Phụng và Bình Thới.

Cuộc tổng tiến công giai đoạn hai đợt 2 kéo dài đến ngày 13/6 mới kết thúc. Các tiểu đoàn cảm tử của quân Giải phóng đã gây nhiều bất ngờ về chiến thuật và khả năng chiến đấu thọc sâu trong thành phố, tiếp tục gây nhiều thiệt hại cho lực lượng Mỹ-ngụy. Mặc dù vậy, các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương phải chiến đấu trong khi yếu tố bí mật không còn, đối phương tăng cường triển khai đối phó, hầu hết các cuộc hành quân tiếp cận đều bị ngăn chặn, nhiều đơn vị không đến được mục tiêu trên giao.

II.4A-4. Tấn công và nổi dậy đợt 3

Sau 2 đợt của cuộc tổng tiến công, song song với việc tìm cách trấn an dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, tại miền Nam Việt Nam, Mỹ tìm mọi cách tăng cường sức mạnh quân sự nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Một mặt, Mỹ ráo riết thực hiện kế hoạch "bình định cấp tốc" ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục chiến tranh.

Cùng với việc gia tăng quân ngụy, Mỹ đã chuyên chở một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam để bù đắp số mất mát, hư hỏng qua hai đợt tổng tiến công và nổi dậy, đồng thời thay thế một số chủng loại vũ khí cũ bằng vũ khí hiện đại hơn.

Đến cuối năm 1968, tại miền Nam Việt Nam, theo số liệu Mỹ công bố, đã có 535.000 lính Mỹ và 65.791 lính thuộc quân đội các nước đàn em của Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các quốc gia đồng minh, chư hầu.

Về phía Quân Giải phóng miền Nam, qua hai đợt tổng tiến công liên tục Tết và tháng 5, lực lượng và vũ khí, đạn dược đã bị tổn thất lớn, chưa kịp bổ sung. Bên cạnh đó, lực lượng bí mật ém trong nội thành và phần lớn cơ sở - nơi cất giấu vũ khí, trang bị, chỗ đứng chân, nơi xuất phát tiến công cho các đợt tiến công tiếp sau đã bị lộ, bị đánh phá mất gần hết.

Tại Sài Gòn, mặc dù thời cơ đã mất, nhưng theo Bộ tư lệnh khu V thì: "Không khí tổng công kích - tổng khởi nghĩa vẫn còn, nhưng có kèm theo tâm lý cay cú ở một số đồng chí muốn tấn công vào Sài Gòn như hai đợt trước". Trên mặt trận Quảng - Đà (Khu V) và một số mặt trận khác, do còn giữ được thế và lực còn mạnh, nên Bộ tư lệnh Khu V đã đề nghị Trung ương cho mở tiếp đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy. Ngược lại, cũng có nhiều nơi xin tạm dừng tiến công để xốc lại đội hình, bổ sung, củng cố lực lượng, vũ khí trang bị.

Sự kiện đáng chú ý trong giai đoạn này là việc quân Mỹ tại Khe Sanh đã bị buộc phải phá hủy căn cứ và rời khỏi đây do sức ép của quân Giải phóng. Cuộc rút quân được diễn ra bí mật, nhưng cuối cùng vẫn bị lộ ra bởi báo chí đưa tin. Vụ việc này góp phần khuyếch đại thành công chiến lược, đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Mỹ và cũng làm tăng khí thế cho quân Giải phóng.
Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, lực lượng được xem là thiện chiến nhất thế giới, di tản khỏi căn cứ Khe Sanh ngày 1/7/1968



Nhằm thống nhất chủ trương hoạt động trên chiến trường, ngày 24 và 25/7/1968, Thường trực Quân ủy Trung ương, bao gồm bí thư thứ nhất Lê Duẩn, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Quý Hai họp bàn kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Ngoài ra, Thường trực Quân ủy Trung ương còn mời thêm Hoàng Anh, Lê Trọng Tấn, Trần Sâm, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Đôn.... cùng tham dự cuộc họp.

Bộ Chính trị xác định: "Để tạo ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam trong năm 1968, cần phải cố gắng diệt cho được 70 - 80% lực lượng dự bị chiến lược của Mỹ-ngụy. Đánh mạnh vào Sài Gòn, còn ở Đà Nẵng thì tùy theo khả năng mà đánh ở quy mô thích hợp. Song, dù thế nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn để tạo điều kiện cho đánh lâu dài. Đồng thời, đưa lực lượng dự bị chiến lược vào đứng chân ở Tây Nguyên chờ thời cơ."

Để tránh bị bất ngờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị: "Phải có phương án dự kiến thời cơ đến trước trong kế hoạch hoạt động Đông - Xuân."

Mục tiêu của đợt 3 tổng tấn công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968 vẫn được Bộ chính trị xác định: Chiến trường Sài Gòn, Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng - Đà. Thời gian nổ súng được ấn định vào ngày 17/8, kết thúc vào ngày 28/9/1968.

Thực hiện quyết định của Bộ chính trị và Trung ương Cục miền Nam, mặc dù yếu tố bí mật, bất ngờ không còn, song lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đã phối hợp đồng loạt tiến công trên 27 thành phố và thị xã, hơn 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hoá quân sự, 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài Gòn.

Sau nhiều tháng chiến đấu với giặc ở đợt 2 và 3, quân Việt đã khoét sâu vết thương đang nhức nhối của Mỹ về mặt chính trị, chiến lược, khuếch đại được những tiếng vang gây ra ở đợt 1, làm cho dư luận nội bộ Mỹ hầu như không còn chịu đựng nổi nữa, đồng thời gây tổn thất quân sự, chiến thuật không nhỏ cho giặc. Tuy nhiên, do đợt 2 và 3 quân Mỹ đã đề phòng nên về cơ bản là yếu tố bất ngờ không còn nữa, nên quân Việt bị tổn thất khá trầm trọng trong 2 đợt này, trên khắp chiến trường miền Nam, kể cả ở mặt trận nông thôn.

Chiến dịch xuân Mậu Thân khép lại bằng các trận chiến trên đèo Hải Vân và ở Đà Nẵng, 1 trong 3 thành phố lớn nhất từ vĩ tuyến 17 trở vào (Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế). Tại Khu 5, ngày 17/8, tiểu đoàn công binh quân Giải phóng đánh sập 3 cầu trên đèo Hải Vân, các tiểu đoàn bộ binh và đặc công cùng lực lượng Hòa Vang tấn công một loạt căn cứ, kiểm soát khu phố Cẩm Lệ, uy hiếp quận lỵ Hòa Vang. Một tiểu đoàn bộ binh tấn công căn cứ biệt kích ngụy người Nùng ở chân núi Non Nước.

Đêm 22/8, sư đoàn 2 chủ lực quân khu và các lực lượng đặc công đồng loạt tiến công vào thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An, Tam Kỳ và các thị trấn, quận lỵ Hoà Vang, Vĩnh Điện. Sân bay Đà Nẵng bị pháo kích dữ dội, nhiều máy bay bị phá hủy, nhiều lính Mỹ bị giết. Kho xăng ESSO bị pháo kích bốc cháy đến 10 giờ sáng, tiêu hủy 6 triệu lít xăng. Đêm 16/11, quân Giải phóng lại tấn công căn cứ hải quân, sân bay Đà Nẵng và nhiều vị trí khác trong thành phố.

oOo


Nhà sử học Mỹ Larry Berman, tác giả sách Perfect Spy: The Incredible Double Life of Pham Xuan An Time Magazine Reporter and Vietnamese Communist Agent (Điệp viên hoàn hảo: Hai cuộc đời kỳ diệu của Phạm Xuân Ẩn, phóng viên tuần báo Time và điệp viên cộng sản Việt Nam), trong cuộc phỏng vấn với nữ đạo diễn Lê Phong Lan cho phim tài liệu "Mậu Thân 1968" sản xuất năm 2012, đã nhận xét: "Tất cả người dân Mỹ đều nhìn thấy hình ảnh tòa đại sứ nằm dưới tầm lửa đạn trên TV tại phòng khách mọi gia đình. Họ tự hỏi tại sao điều này lại có thể xảy ra. Tổng thống của chúng ta đã tuyên bố chúng ta đang đi đến khúc ngoặt của cuộc chiến và đang chuẩn bị giành thắng lợi đến nơi rồi. Cuộc tấn công tết bộc lộ ra cho người dân Mỹ thấy rằng toàn bộ cuộc chiến này dựa trên cơ sở của một lời dối trá".

Sau này, trong hồi ký, tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson xác nhận: "Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ, cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ, nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại". Văn phòng hệ thống phân tích tình hình thuộc Lầu Năm Góc thì đánh giá: "Cuộc tiến công (Mậu Thân) hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình (bình định)".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne–2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã đúc kết: "Đường lối của chúng tôi không chỉ đơn thuần là quân sự, mà là một chính sách tổng thể, kết hợp toàn diện cả quân sự - chính trị - ngoại giao. Cuộc tiến công Mậu Thân có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị".

Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và tin tưởng vào giới quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh, đem quân về nước. Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác các hành động bạo liệt phi nhân tính của binh lính Mỹ-ngụy được trình chiếu trên TV đã đánh vào lương tâm công chúng. Dân Mỹ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức bởi họ coi Chiến tranh Việt Nam là bẩn thỉu.

Trong hồi ký The White House Years (Những năm tháng ở Nhà Trắng), do công ty Little Brown xuất bản năm 1979 (Phoenix Press tái bản năm 2000, Simon & Schuster tái bản năm 2011, bản tiếng Việt do Thư viện Trung ương Quân đội dịch năm 1982), ngoại trưởng Henry Kissinger đã thừa nhận: "Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước mà Chiến tranh Việt Nam gây ra.... Chính cơ cấu của chính phủ đã bị tan rã. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng, con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia các cuộc biểu tình.... Sự kiệt sức là dấu ấn của tất cả chúng tôi. Tôi phải đi từ nhà tôi, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút".

Trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (1973), Trung ương Đảng đã đánh giá, thẩm định diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3, đại ý: Cách mạng đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, và còn không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời. Những khuyết điểm, sai sót đó đã nên để mất đất và tổn thất nghiêm trọng. Song thắng lợi trong đợt 2 và 3 tổng tiến công và nổi dậy cũng không nhỏ, cách mạng không chỉ tiêu diệt được một lực lượng chiến lược của Mỹ-ngụy, mà điều quan trọng là đã đánh bồi liên tiếp, đánh tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc tổng thống Johnson phải tuyên bố chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận tham gia hòa đàm Paris về Việt Nam.

Sự kiện tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt của quân dân ba miền Việt Nam, nổ ra trên toàn miền Nam năm Mậu Thân 1968, dù đã bị Mỹ đánh lui và bị tổn thất rất nặng, làm nhiều cơ sở trong thành phố bị lộ và vỡ, nhưng nó đã làm phá sản chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, làm tiêu tan ý chí chiến đấu của binh lính Mỹ, làm nhức nhối tim óc và ý chí chiến tranh của Washington, gây chấn động dư luận và làm phong trào phản chiến càng lan rộng khắp Việt Nam, Hoa Kỳ, và thế giới, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh ở miền Nam, tạm ngưng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và phải vào bàn đàm phán trong Hội nghị Paris về Việt Nam.
Tổng thống Lyndon B. Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thất thần, tuyệt vọng khi nghe các báo cáo về sự kiện Tết Mậu Thân

Sự kiện Mậu Thân 1968 về cơ bản đã đánh bại chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, trong giai đoạn này Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng hoàn thành một khối lượng lớn công việc. Trong vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam, những kế hoạch nông nghiệp rộng lớn đã được thực hiện và nhiều cuộc bầu cử đã được tổ chức để thành lập chính quyền địa phương, cuộc bầu cử tháng 11 năm 1968 đã được hoàn thành trong 17 tỉnh, 5 thành phố và 38 huyện ở miền Nam Việt Nam.

Theo ước tính và thống kê của nhà nghiên cứu sử học người Mỹ gốc Nga L.V. Kotov trong bài nghiên cứu American Aggression in Vietnam (Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam) trên Bách khoa thư Farlex, thì cho đến thời điểm này, tổng số lực lượng vũ trang Hoa Kỳ chiến đấu chống Việt Nam là khoảng 60 vạn (đầu năm 1969). Mỹ đã sử dụng 37% trong tổng số Thủy quân Lục chiến của họ, 41% trong tổng số máy bay chiến đấu của lực lượng không quân chiến thuật, lên đến 20% trong tổng số lực lượng máy bay tấn công tàu sân bay, khoảng 30% trong tổng số trực thăng của lực lượng không quân, và hơn 20% trong tổng số máy bay ném bom chiến lược của họ để tiến hành các hành động quân sự tại Việt Nam.

Hơn 2 triệu tấn vật tư quân sự khác nhau đã được chuyển từ Mỹ đến Việt Nam mỗi tháng trong thời gian 1968-1969. Từ khởi điểm cuộc chiến cho đến cuối năm 1968, không quân Mỹ đã thực hiện trên 90.000 phi vụ không kích miền Bắc Việt Nam, vùng giải phóng miền Nam Việt Nam, và cả Lào, và đến thời điểm đó họ đã sử dụng khoảng 2,3 triệu tấn bom. Đồng thời, quân xâm lược đã thực hiện hơn 500 hoạt động Tìm và Diệt, với các lực lượng khác nhau, từ một tiểu đoàn đến nhiều lữ đoàn.

Sự tổn thất của không quân Mỹ vào năm 1968 trung bình là hơn 70 máy bay một tháng, tổng cộng 3.243 máy bay đã bị bắn rơi trong khoảng thời gian từ ngày 5/8/1964 đến 31/10/1968. Cũng trong thời điểm này, 143 tàu chiến Mỹ bị đánh chìm hoặc hư hại. Đến giữa năm 1969, thương vong của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, theo thống kê chính thức của Hoa Kỳ, đã đến hơn 3 vạn lính, tương đương số lính chết của Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên và tương đương với thương vong của họ trong Thế chiến I.

II.5. Các chiến dịch chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam (1965-1972)

Chiến lược của người Mỹ trên chiến trường miền Nam chủ yếu là dùng bộ binh bình định vùng tạm chiếm và xâm chiếm vùng giải phóng. Còn ở miền Bắc thì họ áp dụng chiến lược chiến tranh phá hoại, sử dụng không quân và hải quân hủy hoại miền Bắc và thủ đô Hà Nội, phá hoại và gây tê liệt tiềm lực kinh tế và quân sự, phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, hệ thống phòng không của Việt Nam, ngăn chặn miền Bắc tiếp viện cho miền Nam và cộng đồng xã hội chủ nghĩa viện trợ cho Việt Nam (bằng cách ném bom chiến lược dai dẳng vào cảng Hải Phòng), khủng bố tinh thần của quân dân Việt Nam đồng thời "lên dây cót" tinh thần đang sa sút của binh lính Mỹ-ngụy (bằng cách ném bom chiến lược dai dẳng vào thủ đô và các đô thị lớn ở miền Bắc VN, những khu dân cư đông người và các mục tiêu dân sự khác).

Nói chung, chiến tranh phá hoại không phải là cuộc chiến xâm lấn, chiếm đóng, mà là cuộc chiến phá hủy, hủy diệt, gây tê liệt, gây khó khăn cho đối tượng.

Chiến tranh phá hoại cũng được sử dụng ở vài nơi tại miền Nam nhưng không quy mô bằng chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Và lực lượng được dùng để phá hoại, quấy rối, càn quét vẫn bộ binh là chủ yếu, máy bay quân sự của Mỹ ở miền Nam chủ yếu dùng cho không yểm, yểm trợ cho bộ binh dưới đất.

Chiến tranh phá hoại miền Bắc được Mỹ tiến hành từ giai đoạn cuối chiến tranh đặc biệt, được sử dụng nhiều cho việc phục vụ chiến lược chiến tranh cục bộ, hoạt động song hành, đan xen với chiến tranh cục bộ, và được áp dụng cả trong giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, rồi đến năm 1972 mới chấm dứt.
"O du kích nhỏ", một tác phẩm nhiếp ảnh nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Phan Thoan. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh không quân Mỹ oanh tạc quyết liệt miền Bắc năm 1965. Trong hình là nữ du kích Nguyễn Thị Kim Lai và phi công Mỹ William Robinson. Khi xem hình này năm 1966, nhà thơ Tố Hữu lập tức "ứng khẩu thành thơ", liền vịnh ngay bức ảnh bằng 4 câu thơ: "O du kích nhỏ giương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu / Ra thế! To gan hơn béo bụng / Anh hùng đâu cứ phải mày râu!".

Trong số những vũ khí mới mà Hoa Kỳ đặc biệt chế tạo, phát triển cho Chiến tranh Việt Nam có cả các loại vũ khí dành cho chiến tranh phá hoại từ trên không, ví dụ bom định hướng bằng tia laser (LGB - laser-guided bomb).

Theo nhà nghiên cứu quân sự người Mỹ gốc Tiệp Khắc Jirka Wagner trong một bài nghiên cứu đăng trên tạp chí quân sự American Heritage của Mỹ thì vũ khí định hướng bởi laser đã được Hoa Kỳ phát triển từ đầu những năm 1960. Không quân Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng ở Việt Nam từ năm 1968, vũ khí LGB của Mỹ đã tác xạ chính xác hơn rất nhiều so với các vũ khí không được laser định hướng. Vũ khí LGB đặc biệt rất hiệu quả đối với những mục tiêu tĩnh nhưng khó nhắm, khó bắn trúng như những chiếc cầu ở miền Bắc Việt Nam, mà trước đó mỗi khi Mỹ muốn phá hủy thì đều huy động nhiều máy bay dội bom, phóng tên lửa ồ ạt vào.

Khoảng 48% bom định hướng ném xuống Hà Nội và Hải Phòng trong thời gian 1972-1973 đã trúng đích, trong khi vài năm trước, chỉ có khoảng 5,5% bom không định hướng dội xuống cùng một khu vực là trúng đích.

Một trong những ví dụ rõ ràng nhất về sự lợi hại của những vũ khí và bom được laser định hướng là mục tiêu cầu Hàm Rồng, 70 cây số ở phía nam Hà Nội, là một địa điểm vượt sông Hồng quan trọng. Bắt đầu từ năm 1965, đã có 871 máy bay chiến đấu, máy bay oanh tạc của Mỹ tìm cách đánh sập cầu, tiêu diệt trọng điểm tiếp viện cho miền Nam này, họ bị lực lượng phòng không tinh nhuệ của Việt Nam đuổi đi hết, mất 11 pháo đài bay chiến lược B-52 mà không đạt được mục đích.

Năm 1972, cầu Hàm Rồng đã bị tấn công bởi bom LGB, và 14 chiếc máy bay rốt cuộc đã làm được điều mà 871 chiếc trước đây không làm được, họ đã thành công đánh sập cầu và diệt được một tuyến quan trọng chi viện cho miền Nam.

Cầu Hàm Rồng bị đánh sập bởi bom định hướng bằng tia laser (LGB - laser-guided bomb). Với loại bom mới này, 14 chiếc máy bay đã làm được điều mà 871 chiếc trước đây không làm được.

II.5A. Chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền)

Tháng 3 năm 1965, không quân Mỹ-ngụy và hải quân Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền). Suốt 3 năm từ 1965 đến 1968, theo tác giả Wayne Thompson trong sách To Hanoi and Back (Đến Hà Nội và Quay về) do Smithsonian Institute Press xuất bản năm 2002 và Carl Berger trong sách The United States Air Force in Southeast Asia (Không quân Hoa Kỳ ở Đông Nam Á) do Văn phòng Lịch sử Không quân, Washington DC xuất bản năm 1977, thì không lực Mỹ đã thực hiện 153.784 phi vụ tấn công miền Bắc Việt Nam, Thủy quân Lục chiến bồi thêm 152.399 phi vụ. Ngày 31/12/1967, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tuyên bố trong chiến dịch Sấm Rền đã có 864.000 tấn bom Mỹ ném xuống Bắc Việt, so với khoảng 653.000 tấn bom trong suốt chiến tranh Triều Tiên và khoảng 503.000 tấn bom ném xuống mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II.

Theo hồ sơ Appraisal of the Bombing of North Vietnam (Thẩm định cuộc đánh bom Bắc Việt Nam) trong kho lưu trữ hồ sơ Chiến tranh Việt Nam "Vietnam Virtual Archive" của Đại học Texas Tech, thì ngày 1/1/1968, CIA ước tính rằng thiệt hại vật chất mà Bắc Việt phải chịu là lên đến 370 triệu USD, trong đó có 164 triệu USD thiệt hại về các tài sản quan trọng (nhà máy, cầu đường, và nhà máy điện). CIA còn ước lượng số thương vong đối với người Việt Nam ở miền Bắc mỗi tuần là khoảng 1 ngàn người, nghĩa là khoảng 90 ngàn thương vong trong thời gian 44 tháng, khoảng 72 ngàn trong số đó là dân thường.

Tuy gây nhiều thiệt hại cho miền Bắc Việt Nam, nhưng chiến dịch Rolling Thunder đã không chặn được dòng tiếp viện Bắc - Nam; ngược lại đẩy thêm phong trào chống chiến tranh ở Mỹ và trên thế giới. Mỹ thừa nhận mất gần 1 ngàn máy bay; gần 500 phi công bị bắt sống. Do bị tổn thất nặng nề và bị sức ép từ phong trào phản chiến, Hoa Kỳ đã chấm dứt hoạt động ném bom trên phía Bắc vĩ tuyến 19 từ tháng 4/1968 và trên toàn miền Bắc Việt Nam từ tháng 11/1968.

II.5B. Chiến dịch Linebacker


Sau 3 năm tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, và 4 năm tạm ngưng, từ khoảng giữa tháng 4 đến đầu tháng 5 năm 1972, Mỹ lại bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, kéo dài đến cuối tháng 10 cùng năm.

Không quân Mỹ-ngụy lần này do các tướng Melvin R. Laird, Thomas H. Moorer, John Dale Ryan, John C. Meyer, John W. Vogt, Jr chỉ huy. Bên phía Việt Nam về tổng thể do đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài, Lê Văn Tri, Hoàng Phương chỉ huy.

Để giải tỏa áp lực tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Xuân - Hè năm 1972; Hoa Kỳ quyết định mở chiến dịch Linebacker, ném bom miền Bắc Việt Nam, thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, nhằm gây tê liệt và kiệt quệ miền Bắc, ngăn chặn các nước đồng minh viện trợ cho Việt Nam và miền Bắc chi viện cho miền Nam.

Lần này Hoa Kỳ đã tung ra những loại máy bay mới nhất và những đòn tiến công mạnh mẽ, ác liệt hơn so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (Rolling Thunder). Ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến, thủ đô của Việt Nam đã bị đánh phá ác liệt. Tổng kho xăng dầu Đức Giang bốc cháy hơn 1 tuần. Lần đầu tiên Hải Phòng bị pháo đài bay chiến lược B-52 rải thảm. Các cuộc oanh tạc Hà Nội và Hải Phòng cùng những hoạt động phóng ngư lôi phong tỏa các hải cảng ở miền Bắc Việt Nam, do tổng thống Richard Nixon ra lệnh vào tháng 5 để trả đũa chiến dịch Xuân - Hè 1972, đã giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. Các hoạt động vận chuyển hàng hóa từ bên ngoài vào miền Bắc, cũng như các hoạt động tiếp tế của miền Bắc cho miền Nam Việt Nam bị suy giảm rõ rệt.

Ngoài hai trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng, không quân Mỹ-ngụy còn tấn công ác liệt khắp miền Bắc. Cơ sở hạ tầng của miền Bắc từ đường bộ, đường sắt, cầu, cảng, nhà máy, cơ sở sản xuất cho đến đê điều đều bị tàn phá nặng nề. Phía Mỹ có hơn 1 ngàn máy bay các loại bị bắn hạ. Trong số các máy bay bị bắn rơi có 34 chiếc B-52, 4 chiếc F111. Sau khi bị thiệt hại nặng nề, Mỹ tạm ngưng chiến dịch Linebacker, chuyển trọng tâm vào hội nghị Paris về Việt Nam.
Các em nhỏ Hà Nội trước hầm chữ A tại nơi sơ tán

II.5C. Chiến dịch Linebacker II - Điện Biên Phủ trên không

Ngày 18/12/1972, Hoa Kỳ mở chiến dịch Linebacker II, nhằm tàn phá miền Bắc Việt Nam với trọng tâm chiến lược ở thủ đô Hà Nội. Ý đồ chiến lược của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ là tấn công dồn dập bằng pháo đài bay B-52, máy bay ném bom tối tân nhất thế giới, dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt Nam, để gỡ thế thất bại ở miền Nam và ép Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện của họ trong hội nghị Paris về Việt Nam.

Chiến dịch này còn được giới dân sự Mỹ gọi là The December Raids (Cuộc bắn phá tháng 12) hoặc là The Christmas Bombings (Rải bom lễ Giáng sinh), một số người còn ví von gọi là "The nightmare before Christmas" (Cơn ác mộng trước Giáng sinh).

Tại Việt Nam, sự kiện này ban đầu được gọi giản dị là "cuộc chiến 12 ngày đêm", ngay sau đó một số báo Pháp đưa tin về việc này, đã ví trận thắng này như trận thắng Điện Biên Phủ ở trên không trung. Từ đó khái niệm "Điện Biên Phủ trên không" được báo chí Việt Nam thấy hay nên sử dụng đến nay.

Phía Hoa Kỳ do hai tướng John Dale Ryan (Thành viên của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ - JCS, cố vấn cao cấp của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ và Hội đồng An ninh Quốc gia, lập nhiều chiến công thành tích trong Thế chiến II) và John W. Vogt Jr (nguyên Tư lệnh lực lượng Đồng minh ở mặt trận Trung Âu trong Thế chiến II, Tổng tư lệnh Không quân Hoa Kỳ ở châu Âu) chỉ huy.

Phía Việt Nam về cơ bản do ba tướng Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài, Lê Văn Tri chỉ huy. Hầu hết toàn bộ quân dân Hà Nội và nhiều tỉnh thành miền Bắc đều tham chiến, trong đó một bộ phận không nhỏ nữ binh và bạch đầu quân (lính tóc bạc, những cụ già cầm súng chống giặc).

Không chỉ có miền Bắc chống lại chiến dịch Linebacker II của Mỹ, mà đồng bào miền Nam cũng góp sức chống lại chiến dịch này bằng những trận đánh để "rửa hận cho miền Bắc". Ngay từ những ngày đầu không quân Mỹ đánh bom miền Bắc, đông đảo cán bộ đảng viên và quân dân miền Nam đều cảm thấy khó chịu, trăn trở, phê bình nhau: "Tại sao giặc Mỹ hỗn láo đánh miền Bắc mà ta trừng trị kém như vậy?"

Nhưng do thực lực của quân kháng chiến miền Nam lúc đó vẫn đang trong quá trình phục hồi, xây dựng, hoàn thiện lại kể từ chiến dịch Mậu Thân, không còn mạnh như trước Mậu Thân 1968, và lục quân Mỹ vẫn còn đầy đủ ở đây, nên miền Nam lúc đó không dễ mở những chiến dịch quân sự lớn, mà chủ yếu đánh du kích. Tuy nhiên, các lực lượng biệt động, dân quân - tự vệ Sài Gòn đã có những trận đánh vào Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, một số nơi có Mỹ-ngụy ở Sài Gòn, để phục thù cho đồng bào miền Bắc.

Trong 12 ngày đêm xâm phạm không phận và tung hoành trên vùng trời Hà Nội, lực lượng không quân thiện chiến của Mỹ đã ném xuống hơn 36.000 tấn bom. Không quân Mỹ đã dội bom bừa bãi vào nhà cửa, nhà thương, nhà máy, trường học, di tích lịch sử, đền thờ, nhà thờ, chùa chiền v.v. Những đợt tấn công này đã gây thương vong cho hàng chục ngàn dân lành, hủy diệt hoàn toàn hàng ngàn nhà dân và hàng trăm trường học, bệnh viện, rạp hát, chùa miếu, di tích lịch sử.... Tại Hà Nội, khu phố Khâm Thiên hoang tàn nhất, bị hủy diệt hoàn toàn.

Tất cả số nhà máy điện đều bị đánh phá gây thiệt hại nặng, 1.500/1.600 công trình thủy lợi và gần 100 km đê xung yếu bị hư hại; Hầu hết cầu cống quan trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 3.987/5.788 xã, 350 bệnh viện, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; trong đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt hoàn toàn.

B-52 được xem là một "bửu bối" không thể chiến bại của không lực Hoa Kỳ. Tên chính thức của nó là "Pháo đài chiến lược Boeing B-52", là một loại máy bay oanh tạc chiến lược phản lực. Do giá thành tốn kém (53,4 triệu USD mỗi chiếc, theo thời giá năm 1972) và số lượng khiêm tốn (từ xưa tới nay chỉ có 744 chiếc được sản xuất), nên nó chỉ được dùng để thả các vũ khí quy ước trong các cuộc chiến tranh thực tế. B-52 là loại máy bay ném bom có tầm bay xa không cần tiếp nhiên liệu dài nhất trong các loại máy bay trên thế giới, và mang được nhiều tấn vũ khí nhất, đến 27 tấn vũ khí.

Với tầm bay cao, được bảo vệ bởi nhiều máy bay tiêm kích và hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, có thể nói B-52 là một pháo đài bay không thể bị bắn trúng. Đặc biệt, nhiễu điện tử của không quân Mỹ như một bức màn chắn đã gây khó khăn lớn cho bộ đội phòng không.

Chiến dịch ném bom vô nhân đạo này đã bị phản đối quyết liệt khắp thế giới, kể cả những nước đồng minh lâu năm, thân cận của Hoa Kỳ, dư luận nhiều nước gây áp lực để chính phủ của mình chính thức lên án cuộc ném bom. Báo Le Monde (Paris, Pháp) so sánh cuộc ném bom này với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Đức Quốc Xã thực hiện ở Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: "Việc Hoa Kỳ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ".

Các chính phủ Anh, Ireland, Ý và Thụy Điển đều lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của thủ tướng Thụy Điển Olof Palme, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống nhân loại trên quy mô ngang với các tội ác diệt chủng kiểu phát xít Đức. Ông còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom, để gởi tới tổng thống Mỹ Richard Nixon.
Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme dẫn đầu đoàn
biểu tình đòi Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam.
Tại Hoa Kỳ, nhiều thành phần diều hâu từng ủng hộ cuộc ném bom trong chiến dịch Linebacker I, bây giờ chất vấn cả sự cần thiết và tính tàn bạo nghịch thường của Linebacker II. Mười sáu phi công đã gởi đơn khiếu nại lên Bộ chỉ huy xin không bay; 45 gia đình gởi thơ chất vấn về trạng thái tinh thần phi công. Nhiều nơi đã xảy ra binh biến, nội loạn trong quân đội Mỹ.
Bất chấp những cuộc trấn áp, thảm sát tại Đại học Tiểu bang Kent và các thành phố ở California trước đó, nhân dân và sinh viên Mỹ vẫn xuống đường biểu tình đòi chính phủ chấp nhận ký vào hiệp định Paris.


Sau 12 ngày đêm quyết chiến, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 máy bay ném bom chiến lược B-52, và số phận của chiến dịch Linebacker II đã được định đoạt, cường độ tập kích của B-52 giảm hẳn, B-52 dạt ra đánh Thái Nguyên và các mục tiêu hạng hai để tránh "tọa độ lửa" Hà Nội, Hải Phòng.... Tổng thống Nixon ra tín hiệu đề nghị nối lại đàm phán và ngày 30 tháng 12 đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch ném bom, quay lại đàm phán tại Paris và chấp nhận phương án cũ của hiệp định Paris mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết.

Sau trận này, khí thế của quân dân Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc dâng lên rất cao. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới đánh bại được "thần tượng B-52". Và sau năm 1975 đến nay, với khoa học kỹ thuật công nghệ quân sự thế giới tiên tiến hơn, cũng vẫn chỉ có 1 máy bay B-52 bị bắn hạ trong chiến tranh Vùng Vịnh 1991.

II.6. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1968-1973-1975)

Sau khi thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ, đặc biệt sau chiến dịch Mậu Thân, gần như cả thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ thúc ép chính phủ Mỹ sớm đưa lính Mỹ, đưa người thân của họ về nước.

Những thất bại quân sự và chính trị của Mỹ trong thời gian này đã tác động mạnh đến tình hình Liên bang Hoa Kỳ, tổng thống Richard Nixon trong ngày nhậm chức tổng thống Mỹ đã phải than rằng: "Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống tinh thần nước Mỹ và bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết xé rách vẫn còn lâu mới lành".

Để cứu vãn tình hình bi đát của Mỹ trong khi các lực lượng chiến đấu của họ ngày càng lún sâu vào trong "vũng lầy Việt Nam" và ngày càng có nhiều lính Mỹ chết trận, tổng thống Nixon sau nửa năm cầm quyền đã đề ra chiến lược De-Americanization (Phi Mỹ hóa) các hoạt động quân sự trên chiến trường Việt Nam.

Ban đầu Nixon và các nhà lãnh đạo Mỹ định dùng danh từ De-Americanization. Nhưng sau đó bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird cho rằng danh từ này đã gián tiếp thừa nhận việc Hoa Kỳ đã xâm lược Việt Nam, thú nhận lộ liễu vai trò đầu não, trung tâm, và trách nhiệm chính của họ trong cuộc chiến. Do đó, ông đề nghị dùng một danh từ nào đó không nhắc gì đến Mỹ. Theo đó, cái tên mới "lờ Mỹ sang một bên" là Vietnamization (Việt Nam hóa) đã được sử dụng.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin R. Laird khi đó đã miêu tả chính sách này trong tài liệu công khai của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ như sau: Expand, equip, and train South Vietnam's forces and assign to them an ever-increasing combat role, at the same time steadily reducing the number of U.S. combat troops. (Phát triển, trang bị, và huấn luyện quân đội Nam Việt Nam và phân công họ ngày càng nhiều vai trò chiến đấu hơn, đồng thời đều đặn giảm bớt số lượng của quân nhân chiến đấu Mỹ.)

Việt Nam hóa chiến tranh nói chung là sự tiến hành chiến tranh bằng người Việt Nam, nói cụ thể hơn là một chiến lược chiến tranh của Hoa Kỳ nhằm từng bước chuyển giao lại vai trò thực hành quân sự cho đại quân ngụy, từng bước biến các cuộc chiến giữa người Mỹ và người Việt thành giữa người Việt với nhau, dùng người Việt đánh người Việt, "thay màu da trên xác chết" (nghĩa là thay xác chết da trắng bằng xác chết da vàng, nguyên bản câu nói của đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker, làm việc ở Việt Nam từ năm 1967 đến 1973, về chương trình Việt Nam hóa chiến tranh là: "Thay đổi màu xác chết"). Đại quân Sài Gòn bị đẩy ra thực hành chiến tranh thay cho Mỹ. Tương tự chiến lược (Da) vàng hóa chiến tranh mà Pháp đã thực hiện từ năm 1949 trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Chiến lược chiến tranh Việt Nam hóa, về mặt chính trị, là một quá trình từng bước chuyển cuộc chiến tranh xâm lược có vài yếu tố của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (chính quốc chỉ huy, huấn luyện, xây dựng, phát triển ngụy quân, như trong thời Pháp thuộc và kháng chiến chống Pháp) trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt, và có nhiều yếu tố của chủ nghĩa thực dân cũ (chính quốc trực tiếp chiến đấu và quản lý, tự đánh, tự làm, như thời Pháp thuộc và kháng chiến chống Pháp) trong chiến tranh cục bộ, sang một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới đúng nghĩa hơn (ngụy quân tự quản về thực hành quân sự, chính quốc chỉ đóng vai trò lãnh đạo chung, kiểm soát chính trị và ngoại giao, trang bị, cung cấp, nuôi dưỡng, đứng sau chống lưng và giám sát, kiểm soát từ bên ngoài).

Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh mà Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam thực tế có 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu là từ năm 1968 đến năm 1973. Giai đoạn này được gọi chính xác là quá trình Việt Nam hóa chiến tranh. Và trong quá trình này thì vẫn còn yếu tố quân sự Mỹ và vẫn còn các yếu tố quân sự của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (chính quốc chỉ huy và tham chiến).

Giai đoạn sau năm 1973 đến 1975 là giai đoạn kết thúc chiến tranh, là giai đoạn chiến lược "đánh cho ngụy nhào" theo lời dặn của Bác Hồ. Đây là giai đoạn quân dân Việt Nam đấu tranh chống sản phẩm dở dang của Việt Nam hóa chiến tranh, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới đúng nghĩa hơn (Mỹ không còn trực tiếp tham gia quân sự, mà chỉ đóng vai trò trang bị, cung cấp, giám sát và lãnh đạo cuộc chiến về mặt chính trị), không còn các yếu tố của chủ nghĩa thực dân kiểu cổ điển (chính quốc chỉ huy, quản lý, trực tiếp đánh).

Việt Nam hóa chiến tranh còn là một chương trình từ Học thuyết Nixon, do tổng thống Mỹ Richard Nixon đề ra để thay cho chiến lược chiến tranh cục bộ của người tiền nhiệm Lyndon B. Johnson vốn đã phá sản. Loại hình chiến tranh này trong thời kỳ đầu vẫn có sự phối hợp của một bộ phận đáng kể lực lượng chiến đấu Mỹ và vẫn do Mỹ chỉ huy bằng hệ thống "cố vấn". Rồi về sau quân viễn chinh Mỹ và đồng minh mới rút dần khỏi chiến trường, đồng thời tăng cường ngụy quân bản xứ để giảm thương vong cho người Mỹ trên chiến trường. Thực hiện chiến lược "dùng người Việt đánh người Việt".

Ngày 18 tháng 2 năm 1970, tổng thống Richard Nixon công bố 3 giai đoạn của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh:
  • Hoàn thành ba bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, rút dần Lục quân Hoa Kỳ ra khỏi chiến trường Việt Nam.
  • Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, xây dựng, trang bị, hoàn thiện quân đội này để nó đủ khả năng chiến đấu ngang sức với Việt Cộng và Bắc Việt, giữ vững được Nam Việt Nam trong tầm kiểm soát của Hoa Kỳ, bán đảo Đông Dương trong quỹ đạo của Hoa Kỳ, và khu vực Đông Nam Á trong tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ.
  • Hoàn tất những mục tiêu còn lại. Củng cố kết quả đã đạt được.
Trong ba giai đoạn đó, theo Nixon và giới quân sự Mỹ, giai đoạn 1 (dự kiến thực hiện từ năm 1969 đến giữa năm 1972) là giai đoạn quan trọng nhất được chia làm 3 bước thực hiện:

  • Từ năm 1969 đến giữa năm 1970: Bình định một số vùng đông dân quan trọng. Xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở Việt Cộng. Rút một số đơn vị chiến đấu Hoa Kỳ ra khỏi chiến trường Việt Nam. Khống chế và đẩy lùi quân Việt Cộng, làm cho Việt Cộng không hoạt động được ở quy mô từ đại đội trở lên.
  • Từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971: Bình định được tất cả các vùng đông dân quan trọng. Phân tán nhỏ lực lượng Việt Cộng, khiến họ không hoạt động được từ cấp đại đội trở lên ở những vùng căn cứ. Hoàn thành kế hoạch hiện đại hóa quân đội Việt Nam Cộng hòa, rút phần lớn quân đội Hoa Kỳ về nước.
  • Từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972: Cơ bản bình định xong cả miền Nam. Lực lượng vũ trang cộng sản Nam Việt Nam không còn hoạt động được ở các vùng căn cứ trên biên giới Lào, Campuchia, quân đội Việt Nam Cộng hòa đủ sức đương đầu với quân đội cộng sản Bắc Việt Nam. Rút lực lượng chiến đấu trên bộ của Mỹ về nước, chỉ duy trì các sĩ quan "cố vấn" quân sự với vai trò chỉ huy tác chiến.
Thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Hoa Kỳ đề ra 5 biện pháp:

  • Xây dựng quân đội Việt Nam Cộng hòa thành một lực lượng mạnh, hiện đại, đủ năng lực giao tranh ngang sức với lực lượng vũ trang Bắc Việt và Việt Cộng.
  • Củng cố chính quyền các cấp của Việt Nam Cộng hòa, tăng cường viện trợ kinh tế.
  • Tập trung toàn lực hoàn thành chương trình bình định, hành quân sang Lào và Campuchia để tấn công các căn cứ Việt Cộng tại đây.
  • Tập hợp liên minh chống cộng khu vực, biến miền Nam Việt Nam thành một tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
  • Chặn đứng các nguồn tiếp tế cho cộng sản miền Nam, xúc tiến hoạt động ngoại giao để kiềm chế, cô lập Việt Cộng.
Thời kỳ đầu của giai đoạn Phi Mỹ hóa - Việt Nam hóa chiến tranh, bộ binh Mỹ còn giữ vai trò chiến đấu chính. Quân Mỹ và đồng minh trong năm đầu (1969) đạt đến con số cao nhất trong giai đoạn chiến lược mới này, với hơn 50 vạn quân Mỹ và 7 vạn quân đồng minh, là chỗ dựa của quân ngụy và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Quân ngụy Sài Gòn lúc này thường bị Mỹ đưa ra phía trước và sử dụng như một lực lượng xung kích đi đầu đánh tiên phong.

Đây cũng là giai đoạn Việt Nam và Hoa Kỳ "vừa đánh vừa đàm". Đánh nhau trên chiến trường Đông Dương, chiến sự lan rộng ra cả Lào và Campuchia, và đàm phán với nhau trong hội nghị Paris về Việt Nam. Trong những năm đầu chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, lực lượng cách mạng có những tổn thất và khó khăn, một mặt do giặc gây ra, mặt khác do phía Việt Nam chủ quan trong việc đánh giá địch, chậm trễ trong việc đề ra các biện pháp đối phó hữu hiệu.

Nhưng các khó khăn của Việt Nam đã từng bước được khắc phục. Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, với vai trò của một chính phủ tạm thời đại diện hợp pháp của người dân miền Nam Việt Nam. Vừa ra mắt đồng bào và quốc tế thì Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã được 23 quốc gia công nhận, trong đó có 21 quốc gia đặt quan hệ ngoại giao.

Thực hiện lời chúc Tết năm 1969 của Bác Hồ: "Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", và di chúc của Người để lại trước khi qua đời, quân dân ba miền Việt Nam đã cố gắng biến đau thương thành sức mạnh, ra sức chiến đấu chống Mỹ cứu nước.

II.6A. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập


Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thời đó còn được một số người gọi là chính phủ Tây Ninh, là một chính thể cách mạng lâm thời do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập vào năm 1969, sau khi Mỹ thực hiện kế hoạch "Phi Mỹ hóa - Việt Nam hóa chiến tranh", đây là chủ bài của Việt Nam để đối phó với quân bài "Việt Nam Cộng hòa" của Mỹ trên bình diện pháp lý quốc tế, đặc biệt trong trường hợp Mỹ muốn "lấy thịt đè người", dùng ngụy quyền của mình để ngụy tạo "số đông" 2 chọi 1 trên bàn đàm phán trong hội nghị Paris về Việt Nam.
Quân Giải phóng đi qua cầu khỉ

Miền Nam có vùng giải phóng thuộc quyền kiểm soát, quản lý của Việt Nam, và vùng tạm chiếm thuộc quyền kiểm soát của Mỹ và quản lý danh nghĩa của các ngụy quyền địa phương. Thực trạng này ở miền Nam Việt Nam được người Mỹ gọi là "mảnh da báo".

Xuất phát từ thực trạng đó, một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh chống xâm lược Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu với việc ra mắt Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào năm 1969.

Nhà nghiên cứu sử học người Mỹ gốc Nga L.V. Kotov trong bài nghiên cứu American Aggression in Vietnam (Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam) trên Bách khoa thư Farlex, đã viết về sự thành lập này như sau: "Điều này xuất phát từ nhu cầu thực tế cần một chính phủ thống nhất tạm thời ở miền Nam để thay thế cho các chính quyền dân cử địa phương, các cơ quan tự quản từ các cấp xã, thôn, tỉnh, vốn trước đó đã được dân địa phương thành lập để thay thế các bộ phận hành chính con rối của Mỹ, để giải quyết việc hành chính trong những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam".

Như vậy Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập từ nhu cầu thực tế của quân dân miền Nam, chứ không hẳn chỉ là một giải pháp, nghệ thuật, đòn phép chính trị như kiểu Pháp - Mỹ thành lập các chính quyền tay sai của họ.

Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch, Hội đồng Cố vấn Chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Tháng 6/1969 đến tháng 11/1975 đã có 23 nước công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước đã đặt quan hệ ngoại giao.

Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam có cả quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam. Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam được tổ chức ở cấp Trung ương, cấp tỉnh và thành phố, cấp huyện và cấp xã. Các cấp địa phương đều có Hội đồng nhân dân cách mạng và Ủy ban nhân dân cách mạng.
Giấy bạc Việt Nam in ấn trong vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam.

II.6A-1. Cuộc nổi dậy xuân Kỷ Dậu 1969


Đúng 180 năm sau chiến thắng lịch sử xuân Kỷ Dậu 1789 của vua Quang Trung trước giặc Thanh xâm lược, quân Giải phóng đã noi gương quân Tây Sơn, tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt vào hơn 400 mục tiêu của giặc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Thơ Chúc Mừng Năm Mới của Bác Hồ năm 1969 do Ban Tuyên huấn Sóc Trăng in và phát hành rộng rãi trong nhân dân thời bấy giờ


Xuân Kỷ Dậu 1969, quân dân miền Nam Việt Nam đã mở đợt tổng tấn công đồng loạt vào trên 400 mục tiêu của Mỹ ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35 sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn.

Sau hơn 1 tháng chiến đấu, quân dân miền Nam đã gây thương vong cho hơn 5 vạn lính Mỹ và hơn 4 ngàn lính đồng minh của Mỹ, trong đó đa phần là lính Hàn Quốc; tiêu diệt và làm tiêu hao nặng 35 tiểu đoàn và đơn vị hỗn hợp ngang tiểu đoàn, 160 đại đội Mỹ-ngụy và đồng minh; bắn rơi và phá hủy khoảng 1.600 máy bay các loại, phá hủy khoảng 2.900 xe quân sự; bắn chìm và bắn cháy 275 tàu, xuồng chiến đấu; phá hủy khoảng 530 khẩu pháo và súng cối; thiêu hủy và phá nổ khoảng 270 kho bom đạn, xăng dầu và phương tiện chiến tranh v.v. Ngoài hoạt động quân sự, Đảng bộ và người dân còn nổi dậy phá ách kìm kẹp, giành chính quyền ở nhiều ấp, xã trong tỉnh.

Thắng lợi to lớn và toàn diện của quân dân miền Nam trong những ngày đầu xuân Kỷ Dậu 1969 đã giáng những đòn khá đau vào chiến lược tác chiến Quét và Giữ của tổng tư lệnh liên quân mới Creighton Abrams, vào kế hoạch "bình định cấp tốc" của Mỹ-ngụy, và làm cho ngụy quân, ngụy quyền càng xuống tinh thần và ý chí xâm lược của người Mỹ vốn đã rất lung lay sau chiến dịch Mậu Thân, nay lại càng lung lay hơn.

II.6A-2. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào


Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào là một chiến dịch của quân Giải phóng nhằm chống lại cuộc hành quân năm 1971 của Mỹ-ngụy mà báo chí Sài Gòn gọi là "chiến dịch Lam Sơn 719" hay "chiến dịch Hạ Lào". Nó là một chiến dịch quân sự của Mỹ-ngụy theo công thức bộ binh ngụy - vũ khí Mỹ - không yểm và hỏa lực Mỹ. Chiến dịch này do quân ngụy trực tiếp đi đầu tham chiến dưới sự yểm trợ hỏa lực từ không quân và pháo binh Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ đã đưa lính ngụy xuống vùng rừng thiêng nước độc Hạ Lào với hai mục tiêu:

  • Phá vỡ hệ thống hậu cần của quân đội Việt Nam tại Lào, công phá và cắt đứt đường vận tải chiến lược tại khu vực đường 9 và thị trấn Tchepone nằm cách biên giới Việt - Lào 42 km về phía Tây.
  • Thử nghiệm khả năng tự chiến đấu của quân ngụy trong một trận đánh không có bộ binh Mỹ, và trong tình huống Mỹ tiếp tục rút quân dần ra khỏi chiến trường Việt Nam. Đây là một thử nghiệm về chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và năng lực tự thân tác chiến của ngụy quân, thử xem họ có biết đánh, có đánh được hay không.
Nói chung, người Mỹ đưa quân ngụy vào khu vực "đất thánh cộng sản" này và cho lính ngụy đánh thử là để đem lính ngụy ra làm "thí nghiệm", sau đó quan sát, đánh giá xem lính ngụy có biết đánh, có đánh được hay không.

Kết quả khi không có bộ binh Mỹ thì bao nhiêu "trình độ" và sự vô dụng, yếu ớt của quân đội ngụy bộc lộ ra hết, cộng với sự chiến đấu khéo léo biết tận dụng địa hình địa lợi của quân Giải phóng, cũng như phong thổ thất thường, địa lý hiểm trở của vùng rừng thiêng nước độc Hạ Lào, nơi được nhiều người gọi là "vùng đất chết", nên chiến dịch này dù cho có tướng Mỹ James W. Sutherland, Jr. chỉ huy không yểm và pháo binh yểm trợ, vẫn trở thành một thảm họa đối với quân ngụy. Quân ngụy đã bị tổn thất nặng, hơn 2 vạn quân bị loại khỏi vòng chiến, làm suy sụp tinh thần Mỹ-ngụy. Việt Nam hóa chiến tranh, chiến lược mà nhiều quan chức Mỹ coi là phương cách tốt nhất để Mỹ hoàn thành rút quân, đã có những thất bại ban đầu.
Quân ngụy tháo chạy sau khi bị quân Giải phóng đánh bại trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Công thức tác chiến "bộ binh ngụy - vũ khí Mỹ - không lực và hỏa lực Mỹ" đã phá sản trong sự kiện Hạ Lào 1971.


Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào còn đánh dấu bước phát triển mới của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong chiến dịch này, quân Giải phóng đã bỏ chiến thuật du kích và tiến hành phản công theo kiểu chiến tranh quy ước, nâng chiến tranh du kích lên chiến tranh cách mạng, quân Giải phóng đã mở các đợt tấn công lớn bằng bộ binh với yểm trợ của thiết giáp và pháo binh hạng nặng để đè bẹp các vị trí của quân ngụy. Sự hiệp đồng tác chiến ăn ý của hỏa lực phòng không đã khiến cho sự yểm trợ không quân chiến thuật và tăng viện bằng không quân của Mỹ bị vô hiệu hóa.

Quân Giải phóng đã dự đoán sẵn một nỗ lực quân sự tiếp theo tất yếu của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, và bày binh bố trận chờ giặc. Trong thời gian đầu của chiến dịch, quân Giải phóng còn cố gắng tìm cách giấu lực lượng để dụ địch tiến sâu vào trận địa phía Tây, chỉ đến khi không còn giữ được bí mật, mới tiến hành trận đánh đại phá bản Đông, cho thấy quân ngụy thất bại "từ trong trứng". Hoặc theo một cách lập luận khác, ngụy quân đã biết chắc thất bại nhưng vẫn phải đi vào vùng "đất chết" vì những lý do chính trị, vì đó là ý của Mỹ, như lời của ông Nguyễn Văn Thiệu: "Chỉ cần đến Tchepone rồi rút về".

Đó cũng là nguyên nhân trong chiến dịch này các đơn vị lính ngụy thiện chiến nhất trong quân trường Mỹ-ngụy đều hầu như không có tinh thần chiến đấu, như là một bầy cừu bị ông chủ xua, lùa, đẩy xuống vực sâu mà vẫn phải đi vì không có sự chọn lựa nào khác.
Tại Việt Nam, quân xâm lược thường gọi ngụy binh là "đồng minh" và chiến đấu nhân danh "bảo vệ đồng minh". Nhưng kẻ "được bảo vệ" sẽ phải ra trận ở vị trí nguy hiểm nhất, còn "người bảo vệ" sẽ ở vị trí an toàn hơn.


Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào cũng đã vĩnh viễn làm thay đổi kỹ thuật quân sự Hoa Kỳ và thế giới. Trước đây, chiến thuật Trực thăng vận thật ra đã bộc lộ phần nào nhược điểm, bị quân Việt Nam "bắt bài", song chưa có gì rõ ràng lắm, nhưng đến chiến dịch này nhược điểm của Trực thăng vận đã thể hiện rõ trong một chiến dịch đại bại ấn tượng.

Lúc này thực tế chiến trường Việt Nam đã đưa đến những mâu thuẫn trong Bộ quốc phòng Mỹ và giới quân sự quốc tế về xu hướng hiện đại hóa kỹ thuật quân sự. Người thì cho rằng xe tăng mới là vua chiến trường, người khác lại cho rằng trực thăng vũ trang vẫn là bà chúa chiến trường. Chiến dịch Đường 9 Nam Lào sau này đã được giới khoa học quân sự Mỹ nghiên cứu kỹ càng, và đã nhìn nhận lại vị trí, vai trò của trực thăng vũ trang. Tờ Người Quan Sát Mới (Pháp) ngày 29/3/1971 bình luận: "Ý nghĩa sâu sắc của cuộc hành quân Lam Sơn 719 là chỉ ra thất bại lớn đầu tiên của loại máy móc từ trước đến nay vẫn được giới quân sự Mỹ dương dương tự đắc trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam - đó là máy bay trực thăng".

Kể từ sau cuộc hành quân Hạ Lào và sau Chiến tranh Việt Nam, từ đó về sau trực thăng quân sự được sử dụng ở tiền tuyến là loại máy bay chở ít người, bọc giáp tốt, chống tăng tốt, gọi là "trực thăng tấn công". Những loại có vỏ giáp mỏng và vũ trang yếu được lùi về tuyến sau để tham gia vận tải là chính. Ngày nay trực thăng không còn được sử dụng như xe bọc thép chở quân nơi tiền tuyến, chiến thuật Trực thăng vận lừng danh một thời của Mỹ đã bị quân dân Việt Nam làm cho "thất truyền".

Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào cũng làm nổi nên vấn đề tồn tại từ lâu trong nghệ thuật pháo binh về pháo 175 mm tự hành nòng dài tầm xa (M107). Pháo được sơn dòng chữ "vua chiến trường" trên nòng do tầm bắn xa và uy lực cực mạnh, nhưng không được bọc thép trong chiến đấu, cồng kềnh không tiện cho cơ động - trú ẩn, tốc độ bắn chậm, kém chính xác do tính toán và định vị yếu. Do vậy khi đấu pháo, M107 không chống lại được kiểu pháo xe kéo M-46 130mm dù có tầm bắn xa và sức công phá của đạn mạnh hơn. Ngày nay pháo này không còn được Hoa Kỳ sử dụng, được coi như một loại vũ khí phát triển chưa hoàn chỉnh.

II.64-3. Chiến dịch Xuân - Hè


Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Xuân - Hè (người Mỹ gọi là Easter Offensive), kéo dài đến đầu năm 1973. Đây là cuộc hiệp đồng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng tác chiến, tấn công sâu vào các hướng quan trọng của giặc. Nhóm chiến dịch Xuân - Hè 1972 bao gồm 3 chiến dịch nhỏ hơn:
  • Chiến dịch Trị - Thiên ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế.
  • Chiến dịch Bắc Tây Nguyên tại Đắc Tô, Tân Cảnh, Kon Tum.
  • Chiến dịch Nguyễn Huệ - chiến dịch giải phóng Lộc Ninh, Bình Long và dọc đường 13, miền Đông Nam Bộ.
Sơ đồ tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Xuân - Hè 1972

Ngày 30/3/1972, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch giải phóng Quảng Trị (chiến dịch Trị - Thiên) với hai sư đoàn 304 và 308. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ miền Bắc có khoảng 3 vạn quân, cùng với khoảng 15 vạn quân Giải phóng ở miền Nam, theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn.

Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giải phóng nhanh thị xã Quảng Trị và Thành cổ, tiến đến bờ bắc sông Mỹ Chánh, uy hiếp Mỹ-ngụy ở Thừa Thiên-Huế. Mỹ-ngụy huy động gần như toàn bộ lực lượng dốc sức cướp lại Quảng Trị với công thức "bộ binh ngụy - vũ khí Mỹ - "cố vấn" Mỹ - không quân Mỹ - hải quân Mỹ - hỏa lực Mỹ""ngụy lên trước - Mỹ đứng sau". Hỏa lực và không yểm Mỹ bao gồm pháo hạm từ Hạm đội 7 và hơn 100 máy bay ném bom chiến lược B-52 và hơn 1 ngàn máy bay khác, liên tục dội bom, bắn phá QĐNDVN.

Do lâm vào thất thế và muốn chiếm lại Quảng Trị bằng mọi giá, Mỹ-ngụy đã rút quân bỏ ngỏ nông thôn, huy động hầu hết các lực lượng chủ lực chiếm lại những vùng đã mất, và huy động hầu hết các lực lượng trừ bị để giữ các thị xã khác. Nhân cơ hội đó, các lực lượng võ trang địa phương của Quân Giải phóng miền Nam đã mở các cuộc tấn công tại đồng bằng sông Cửu Long và quanh Sài Gòn, gây tổn thất lớn cho giặc.

Trận đánh 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị đã diễn ra vô cùng ác liệt và bi tráng, quân ngụy dưới sự đôn đốc và yểm trợ hỏa lực của Mỹ đã xông lên như những con thiêu thân không khác "chiến thuật biển người", Mỹ kết hợp pháo hạm trên biển, pháo trên bộ, và pháo đài bay từ trên không, dùng B-52 ném bom rải thảm, huy động bộ binh, lính Dù, Thủy quân Lục chiến ngụy tấn công dữ dội nhằm đánh bại trung đoàn 27 QĐNDVN, tái chiếm Thành cổ.

Từ 28/6/1972 đến 16/9/1972, trải qua 81 ngày đêm để chiếm Thành cổ Quảng Trị rộng 16 ha và cả thị xã Quảng Trị hơn 3 km2, Mỹ đã trút xuống đây hơn 328.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử. Hơn 80% thương vong của Quân đội Nhân dân Việt Nam là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích của Mỹ, chỉ có một phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh với binh lính ngụy. Trung đoàn 27 QĐNDVN đã quyết bám đất chiến đấu đến những viên đạn cuối cùng và đến những người cuối cùng. Khi thoát ra ngoài cả một trung đội chỉ còn là một tiểu đội, chỉ còn khoảng 10 người sống sót. Thành cổ hầu như không còn nguyên vẹn, khắp nơi đầy máu người và vết bom đạn.

Sau đó, cuộc chiến tiếp diễn ở bờ bắc sông Thạch Hãn, tướng Creighton Abrams mở cuộc hành quân Tangocyti nhưng bị tổn thất nặng và không thu được kết quả nào. Quân đội Nhân dân Việt Nam không giữ được Thành cổ Quảng Trị, nhưng Mỹ-ngụy sau khi chiếm lại Thành cổ cũng đã kiệt quệ, không còn đủ sức chiếm lại Đông Hà và cảng Cửa Việt. Về quân sự, chiến thuật, QĐNDVN đã giành thêm được đất. Về chính trị, chiến lược, thì chiến dịch này góp phần dồn ép Hoa Kỳ vào thế yếu trong hội nghị Paris về Việt Nam.

Cũng vào ngày 30/3/1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công vào khu vực phía bắc Tây Nguyên, các trận chiến diễn ra đẫm máu ở ven sông Poko, Đắc Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum. Ngày 9/6/1972, quân Giải phóng giết được trung tá John Paul Vann ở khu B1-Gia Lai. Chiến dịch Bắc Tây Nguyên kết thúc, QĐNDVN giải phóng được Đắc Tô - Tân Cảnh.

Ngày 31/3/1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam Bộ nhằm giải phóng một phần các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh làm nơi đóng trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và làm bàn đạp uy hiếp cơ sở đầu não của giặc ở Sài Gòn từ hướng Bắc và Tây Bắc.

Các trận đánh đã nổ ra quyết liệt ở Lộc Ninh, Xa Mát, Phước Bình, An Lộc, Đường 13. Cuối cùng, sư đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam tiến sâu xuống vùng trung tuyến, hiệp đồng tác chiến với lực lượng nổi dậy địa phương tiến công quân ngụy ở Bắc Bình Dương và Phú Hòa Đông, Củ Chi, đánh bại giặc, tiêu diệt chiến đoàn 8 của ngụy quân. Ngày 19/1/1973, sau 10 tháng ròng rã chiến đấu, chiến dịch Nguyễn Huệ đã kết thúc, quân Giải phóng thành công lập nên thế trận "da báo" ở miền Đông Nam Bộ, tạo ra sức mạnh và uy thế lớn trong hội nghị Paris về Việt Nam.
Một ví dụ sinh động về công thức "bộ binh ngụy - vũ khí Mỹ - không lực và hỏa lực Mỹ" được người Mỹ thực hiện trong quá trình Việt Nam hóa chiến tranh. Lưu ý bộ binh dễ chết hơn gấp nhiều lần không quân trên trực thăng.

II.6B. Mỹ rút đại quân và phá hoại hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, tổ chức bầu cử thành lập chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam

Cuộc hội nghị ở Paris giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là để có được một giải pháp hòa bình, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Ban đầu chỉ có đàm phán 2 bên là Việt Nam và Hoa Kỳ, về sau phát triển thành hội nghị 2 phía (Việt Nam, Hoa Kỳ) và 4 bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn).
Ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger sau khi ký hiệp định Paris 1973

Bản chất của hội nghị Paris ban đầu là để đôi bên đạt được mục đích tối cao của mình. Việt Nam muốn "Mỹ cút ngụy nhào". Mỹ thì muốn có toàn quyền sinh sát ở miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam phải rút về Bắc, lực lượng kháng chiến miền Nam bị giải tán.

Đến năm 1972, trước sự thắng thế của Việt Nam và sự thất thế, sa lầy của Hoa Kỳ, mục tiêu của họ lúc này là rút quân yên lành, giữ cho được và củng cố ngụy quyền. Như vậy, thực tế lúc này Việt Nam và Hoa Kỳ đã có một điểm chung quan trọng, đó là cả hai đều muốn quân đội viễn chinh rút khỏi. Và Việt Nam đã tạo điều kiện cho Mỹ làm việc đó.

Cả hai phía đều nhượng bộ vấn đề chấp nhận sự tồn tại của 2 chính quyền ở Tây Ninh và Sài Gòn như một thực thể chính trị ở miền Nam Việt Nam. Điều này không có nghĩa là Việt Nam công nhận sự chính danh của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là một quốc gia, nhà nước. Lập trường ban đầu là hai phía Việt - Mỹ đều không chấp nhận sự tồn tại "đồng minh" của nhau và yêu cầu "đồng minh" đó phải giải tán vô điều kiện.

Mỹ chấp nhận rút quân và đề nghị Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam Việt Nam cũng làm điều đó. Song Việt Nam luôn có nguyên tắc bất biến: Người Việt Nam có quyền đi đến bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam, bác bỏ lời đề nghị rút quân của Mỹ. Đây là vấn đề mà Việt Nam coi là một vấn đề mang tính nguyên tắc và không nhượng bộ, thậm chí không chấp nhận bàn về vấn đề đó. Và chiến dịch Linebacker II nổ ra là tất yếu, Mỹ muốn ép Việt Nam phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, để Mỹ rảnh tay hơn, dễ dàng hơn trong việc củng cố ngụy quyền, huấn luyện ngụy quân, củng cố chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, và cũng để Mỹ bảo vệ được phần nào danh dự cường quốc của họ.

Từ mục tiêu đó, Mỹ đã mở chiến dịch Linebacker II nhằm ép bức Việt Nam phải chấp nhận rút các đơn vị quân đội từ miền Bắc phải trở về. Chấp nhận luật chơi quân đội Mỹ rút thì Quân đội Nhân dân Việt Nam từ miền Bắc cũng phải rút. Và miền Nam chỉ còn lại chính phủ cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam, quân Giải phóng, và chính quyền, quân đội Sài Gòn.

Nói cụ thể hơn là họ đánh ván bài chót, cố vớt vát muốn chuyển bại thành thắng hay ít nhất gỡ gạc thế bại. Họ mở chiến dịch oanh tạc miền Bắc và Hà Nội là muốn ép Việt Nam phải thay đổi bản dự thảo tháng 10, chủ yếu là nhượng bộ và chấp nhận điều khoản trước đó do họ đề xướng là QĐNDVN phải rút về Bắc. Nhưng Việt Nam chỉ chấp nhận nguyên tắc 1 nước Việt Nam: Các lực lượng nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. "Ông là người nước ngoài thì ông đi khỏi nước tôi. Còn đây là nhà tôi, tôi ở lại nước tôi, nhà tôi thì tôi muốn đi đâu thì đi. Tôi không bàn với ông chuyện tôi ở đâu trên đất nước tôi. Cũng như ông không bàn với tôi chuyện ông ở đâu trên đất Mỹ".

Tuy nhiên, dù đã thua trên bầu trời Hà Nội và không đạt được mục tiêu cao nhất kể trên, thì hiệp định Paris về Việt Nam vẫn có giá trị với người Mỹ, và họ đã ký vào, vì hiệp định này trên thực tế đã bảo đảm cho việc Hoa Kỳ rút quân bình yên ra khỏi Việt Nam, và lúc đó sẽ không có chiến dịch quân sự từ Việt Nam.

Nếu ai đã từng đánh nhau với người khác đều minh bạch rằng trong lúc đánh nhau không dễ nói chạy là chạy, đặc biệt trong trường hợp đang yếu thế hơn thì càng không thể nói chạy là chạy được. Chỉ cần quay đầu, quay lưng là bị đo ván ngay. Muốn chạy thì phải có khoảng cách an toàn nào đó hoặc đạt được thỏa thuận với đối phương.

Các danh tướng thời xưa, trong buổi đầu sơ khai nhất của nghệ thuật chiến tranh, cũng biết đạo lý này. Vị tướng nào đào tẩu thì đều cẩn thận dò trước ngó sau, gài lại phục binh chặn truy kích. Những tướng tài giỏi hơn thì biết dùng kế nghi binh, ngụy tạo số lò bếp v.v. để làm cho địch nghi ngờ không dám đuổi theo hoặc chậm trễ truy kích. Thời Tam quốc bên Trung Quốc, danh tướng Lục Tốn của Đông Ngô đã dùng nghi binh kế khiến cho sau 3 ngày lui quân thì quân Bắc Ngụy mới phát hiện ra doanh trại địch trống rỗng không còn một bóng người.

Trường hợp của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cũng vậy, nếu trong lúc hàng chục vạn quân Mỹ đang tụ tập dồn cục lo rút đi mà Việt Nam mở chiến dịch quân sự ngay lúc đó thì sẽ có đổ máu lớn. Trước đó Việt Nam cũng đã chứng tỏ được là họ có khả năng đánh ở bất kỳ nơi nào ở miền Nam Việt Nam, kể cả đầu não Sài Gòn, kể cả tòa đại sứ Mỹ, và đánh rất bất ngờ, khó lường.

Nhiều cựu quân nhân Mỹ ngày nay cho rằng bản chất của hiệp định là một sự nhượng bộ và nhịn nhục của người Mỹ, như một cú đấm vào "American pride" (niềm tự hào Hoa Kỳ) của họ. Họ cho rằng họ phải rút đi mà không đổi lại được gì, lực lượng quân đội có tổ chức lớn từ miền Bắc vẫn ở miền Nam, và quân dân miền Nam cũng không giải tán. Trong khi những "nhượng bộ" của Việt Nam theo hiệp định Paris 1973 thì Hoa Kỳ đều không có khả năng và điều kiện để giám sát, kiểm tra, áp chế, thi hành.

Hai nhượng bộ đáng kể của Việt Nam là việc trao trả tù binh Mỹ-ngụy. Và việc chấp nhận sự tồn tại trong hòa bình của ngụy quyền Sài Gòn như là một trong các thành phần chính trị ở miền Nam Việt Nam, được quyền đứng gần ngang hàng với Chính phủ cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Từ lập trường coi ngụy Sài Gòn như là một đám ô hợp cần giải tán ngay, không chấp nhận sự tồn tại của họ như là một trong những thành phần chính trị, thì đã chuyển thành chấp nhận sự tồn tại của họ như một thành phần chính trị, coi họ gần ngang hàng với chính quyền Tây Ninh và lực lượng thứ ba. Việt Nam cũng đồng ý cho Thiệu tham gia bầu cử trong chính phủ liên hiệp 3 thành phần trong cuộc tổng tuyển cử quy định trong hiệp định Paris, cùng với người của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và thành phần thứ ba.

Đây là một nhượng bộ lớn, bởi vì theo luật pháp Việt Nam thì ngụy Sài Gòn là một tổ chức phản quốc theo giặc. Nếu chiếu theo các nguyên tắc và tiêu chí ngày nay thì có thể xem là một tổ chức khủng bố, mạo xưng bất hợp pháp các "quốc hội", "nhà nước" lên trên một Nhà nước Việt Nam và Quốc hội khóa 1 đã tồn tại và hoạt động xuyên suốt từ năm 1946, càn quét, khủng bố nhân dân, thảm sát dân thường, toa rập, đồng lõa, tiếp tay cho quân xâm lược Mỹ dùng bom đạn giết dân và tàn phá đất nước, rải bom và chất độc hóa học xuống những khu vực dân sự, hàng trăm vụ thảm sát đã xảy ra trong vùng tạm chiếm ở miền Nam....

Như vậy, vì mục tiêu đại cuộc mà Việt Nam trong thời điểm đó đã đành phải tỏ ra xem những người miền Nam đánh giặc với những kẻ theo giặc là "bằng nhau", "ngang nhau", đó là những nhượng bộ rất lớn, cả về nguyên tắc lẫn pháp lý và đạo lý.

Thành phần thứ ba kể trên là một liên minh mà Việt Nam dùng để chống Mỹ và cô lập Thiệu, có tên gọi chính thức là Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Liên minh này do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, chịu sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam, do luật sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, Tôn Thất Dương Kỵ làm tổng bí thư, hòa thượng Thích Đôn Hậu và kỹ sư Lâm Văn Tết đồng phó chủ tịch.

Hiệp định Paris 1973 đã đem lại sự danh chính ngôn thuận cho các đội quân viễn chinh mệt mỏi của Hoa Kỳ rút khỏi chiến trường. Phần nào giữ được danh dự nước lớn của Hoa Kỳ. Còn đối với Việt Nam thì hiệp định này đã góp phần đạt được mục tiêu đẩy đại quân Mỹ về nước. Sau đó, theo hiệp định, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam để thành lập một chính phủ mới, một chính phủ tạm thời, một chính phủ 3 thành phần ở miền Nam Việt Nam (chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nói tóm gọn là chính phủ lâm thời 3 thành phần gồm Mặt Trận - Thiệu - Liên Minh).
Bà Nguyễn Thị Bình, nữ bộ trưởng ngoại giao đầu tiên trong lịch sử chính trị Việt Nam, đại diện cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký hiệp định Paris 1973
Người dân Sóc Trăng mừng hiệp định Paris 1973 được ký kết

Mỹ-Thiệu trước khi ký vào hiệp định Paris 1973, đã chấp nhận yêu cầu của Việt Nam về một cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam để thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần theo hiệp định, từng bước tiến tới thống nhất Việt Nam trong hòa bình (như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này đã thực hiện nghiêm chỉnh năm 1976). Rốt cuộc, không có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được.

Cũng như việc phá hoại cuộc tổng tuyển cử toàn quốc theo hiệp định Genève 1954, Mỹ lại phá hoại cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam theo hiệp định Paris 1973. Sau khi Mỹ đã thành công rút đại quân ra một cách an toàn, họ lập tức phá hoại việc thi hành hiệp định Paris 1973, tiếp tục cuộc chiến và phủ nhận tổ chức bầu cử thành lập chính phủ 3 thành phần.

Trong các thỏa thuận giữa hai phía và các điều khoản trong hiệp định, Mỹ chỉ thực hiện gần nghiêm chỉnh điều khoản rút quân, nhưng vẫn không thật sự nghiêm chỉnh hoàn toàn, vì họ chỉ rút quân chính quy, rút những người mặc áo lính, còn những người không mặc áo lính bao gồm CIA, sĩ quan, "cố vấn", các nhân viên quân sự khoác áo dân thường hoặc "tùy viên" quân sự, thì vẫn ở lại. Ngoài ra tất cả các điều khác họ đều phớt lờ, phá hoại, hoặc thi hành không nghiêm chỉnh.

Nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabriel Kolko, tác giả cuốn sách Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc Chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) do NXB Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết trước khi hiệp định Paris được ký kết thì Nixon đã liên tiếp gởi thơ cho Thiệu mà ở đó Mỹ đã bắt Thiệu ký vào hiệp định. Và sau khi hiệp định đã được ký kết thì thì họ cho Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định, bằng việc cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận và gọi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là "chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam"; không thừa nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam theo hiệp định Paris 1973.

Sau khi Hoa Kỳ đã thành công rút quân an toàn về nước, tổng thống Richard Nixon liền ra tuyên bố cho biết Mỹ sẽ không ủng hộ cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam và sẽ làm những gì có thể để giữ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không sụp đổ. Nguyễn Văn Thiệu công khai tuyên bố lập trường 4 không: Không liên hiệp; Không thương lượng với đối phương; Không có hoạt động của cộng sản hoặc đối phương trong nước; Không để lọt vào tay đối phương bất cứ lãnh thổ nào, tiền đồn nào và khẳng định "không có hòa bình với cộng sản", "phải xóa thế da beo", "bắn bỏ những ai chứa chấp cộng sản".

Sau chuyến đi Mỹ gặp Nixon thì Thiệu lại càng quá khích hơn, phá hoại hiệp định Paris một cách bài bản và có hệ thống, đặc biệt là bóp nghẹt mọi quyền tự do được quy định trong điều 11: Quyền đi lại làm ăn sinh sống giữa vùng giải phóng và vùng tạm chiếm. Người dân bị hạn chế nhiều hoạt động, bị kiểm soát, các quyền con người bị xâm hại, quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm, kỳ thị, nhất là với giới tăng ni Phật tử. Danh từ "sư Việt Cộng" được báo chí Sài Gòn tận dụng để "chụp nón cối" các tăng ni. Họ "noi gương" thời Mỹ-Diệm, thấy đất chùa nào muốn cướp thì vu cho là "Việt Cộng nằm vùng", "chứa chấp Cộng Sản", "ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng Sản", gán ghép chụp mũ vu khống. Những người bị tình nghi thân cộng đều bị đặt máy nghe lén, theo dõi, cấm đoán, bắt cóc, bắt bỏ tù, tra khảo, đập chết trong nhà tù, đày ra Côn Đảo - Phú Quốc, tăng cường đàn áp ác liệt.

Riêng ở miền Tây Nam Bộ và một số vùng lân cận, thời kỳ này Mỹ-Thiệu vi phạm lộ liễu hiệp định, lệnh ngừng bắn không được thực hiện, trái lại Thiệu cho xuôi quân bắn giết, đốt phá và lấn chiếm vùng giải phóng, bành trướng mở rộng vùng tạm chiếm. 75 tiểu đoàn ngụy, máy bay, xe tăng, vũ khí hiện đại tập trung tấn công ồ ạt vào Cần Thơ, Vị Thanh, Long Mỹ, tiến tới tấn công U Minh, lấn chiếm toàn bộ miền Tây.

Họ ra sức kìm kẹp cấm đoán nhiều quyền của dân, không cho quần chúng trở về ruộng vườn cũ, không cho đi lại làm ăn ở nhiều nơi - thực hiện chính sách "tát nước bắt cá", để diệt cộng, dồn dân vào các trại tập trung. Đồng thời tuyên truyền xuyên tạc hiệp định, gây hoài nghi trong quần chúng, bảo rằng Việt Cộng đã thua Mỹ nên phải ký hiệp định Paris 1973, cấm đoán quần chúng không cho tổ chức mừng hòa bình, bắt học thuộc lòng 10 điều phải làm, 10 điều bị cấm.

Nếu như năm 1956 Mỹ-Diệm phá hoại cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam là vì CIA thăm dò dư luận và biết rằng lãnh tụ Hồ Chí Minh sẽ thắng chắc, thì năm 1973 Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử hợp nhất miền Nam (hợp nhất vùng giải phóng và vùng tạm chiếm), thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần để tiến tới thống nhất toàn Việt Nam, là vì chính phủ Mỹ, Thiệu, CIA biết lòng dân ủng hộ Mặt Trận, Thiệu bị chống khắp nơi, kể cả từ những đảng phái chống cộng, thân Mỹ, ghen ghét vì Thiệu được Mỹ ưu ái, theo kiểu những người con rơi, con hoang luôn ghen ghét với người mà họ cho là "con cưng" của bố mẹ.

Thiệu cũng bị chống rất gay gắt từ các thành phần thứ ba, những thành phần trung lập giữa cộng sản và tư bản, không phải là cộng sản, chỉ có ủng hộ thống nhất - độc lập - hòa bình, yêu cầu quân đội nước ngoài rời khỏi Việt Nam, và Thiệu còn bị chống bởi nhiều đồng bào Phật tử, giáo phái, thậm chí các tín đồ Thiên Chúa giáo cũng không ưa Thiệu vì họ trung thành với nhà họ Ngô. Thiệu là một trong những tay đầu sỏ trong "Hội đồng Quân nhân Cách mạng" do Mỹ giật dây năm xưa, đảo chính và hạ sát anh em nhà Ngô.

Mỹ-Thiệu cũng biết rằng Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam tuy không công khai nhưng thực chất do Việt Cộng lãnh đạo, cho nên nếu để cho bầu cử diễn ra và thành lập chính phủ 3 thành phần thì chẳng khác nào "2 đánh 1".

Với tình hình Thiệu bị mọi phe phái, đối thủ chính trị ở miền Nam, với đủ mọi màu sắc, xu hướng chính trị, chống đối quyết liệt, thì việc tham gia bầu cử để hy vọng có một chân trong chính phủ 3 thành phần, mà hai thành phần một bên là Mặt Trận, một bên là Liên Minh, thì chẳng khác nào là một "giấc mơ giữa ban ngày". Với tình hình đó, nếu Mỹ-Thiệu chấp nhận bầu cử thì họ sẽ không còn gì cả. Chính quyền và quân đội dưới tay Thiệu vẫn còn thực lực khá mạnh, thì họ không dại gì đi "tự sát" như vậy.

Người Mỹ và Thiệu đều hiểu rằng nếu bầu cử một cách đàng hoàng, không dàn dựng như những cuộc "bầu cử phiếu xanh phiếu đỏ", "tranh cử đối lập 21 năm 2 tổng thống" trước đây, có sự giám sát của các tổ chức, đoàn thể trung lập trong và ngoài nước, thì Thiệu sẽ chẳng "xơ múi" được gì. Số phận của Thiệu có lẽ cũng sẽ không khác gì với Bảo Đại, Việt Quốc, Việt Cách trong chính phủ liên hiệp nhiều thành phần của Việt Minh trước đây. Sớm muộn gì rồi tất cả cũng sẽ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Do đó, việc Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử cũng là điều không quá gây ngạc nhiên, là điều nằm trong dự liệu của Việt Nam.

Chữ ký của Hoa Kỳ và chữ ký bất đắc dĩ của ngụy quyền Sài Gòn còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau thì họ đã mau chóng "lật kèo":

Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.


Những hành động phá hoại hiệp định nói trên đã không cho thấy điều đó.
Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, "cố vấn" và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân nhưng để lại hàng vạn sĩ quan "cố vấn" và nhân viên quân sự mặc thường phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.

Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân Lục chiến. Việc quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người Mỹ, sĩ quan Mỹ, quân nhân Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã bội ước và chuyển giao lại cho quân đội Sài Gòn.

Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).


Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân trên quy mô lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy cuộc chiến, với hàng vạn "cố vấn" và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự. Họ hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể xây dựng và củng cố được một chế độ thuộc địa kiểu mới đúng nghĩa ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài Việt Nam.

Hoa Kỳ trong quá khứ (1956) đã phá hoại tổng tuyển cử theo hiệp định Genève về Đông Dương. Nếu như khi đó Hoa Kỳ ngụy biện rằng họ không ký vào đó nên không chịu ràng buộc pháp lý và không phải tuân thủ thi hành hiệp định đó, thì lần này Mỹ-Thiệu đã có ký vào hiệp định, và ngay sau khi rút quân thành công đã bội ước ngay. Nên có thể nói đây là một sự thất hứa, "lật kèo" nhanh chóng, ngang ngược và lộ liễu hiếm thấy trong lịch sử ngoại giao thế giới.

  • Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam đến ngày 30/4/1975 mới được tự do khi Côn Đảo và Phú Quốc được giải phóng. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.

oOo


Việc Mỹ-ngụy viện đủ lý do để không chấp hành tổng tuyển cử ở miền Nam để thành lập chính phủ 3 thành phần, cũng như không thi hành các điều khoản khác, và sau đó phá hoại, không tôn trọng hiệp định này, đã làm cho giải pháp hòa bình ở miền Nam Việt Nam và giải pháp thống nhất Việt Nam trong hòa bình vào năm 1973 đã bị vô hiệu hóa và không còn tác dụng gì.

Hiện thực mới này đã buộc những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam phải chiến đấu tự vệ trước nhiều trận càn mới của ngụy quân, và quân dân miền Nam đã tiến hành phản công, tiến tới mục tiêu dứt điểm chiến tranh bằng vũ lực.

II.6C. Những cố gắng cuối cùng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam


Hoa Kỳ về cơ bản đã thất bại trong chiến lược chiến tranh Việt Nam hóa, ngụy quân vẫn chưa thể đứng vững trong tác chiến một mình mà không cần sự chỉ huy của "cố vấn" Mỹ và sự yểm trợ của hỏa lực Mỹ, nhất là từ trên không.

Họ thua đau trên vùng trời Hà Nội. Thương vong và thiệt hại của họ đã quá nhiều. Sĩ khí, tinh thần chiến đấu của binh sĩ đã quá thấp, làn sóng phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao chưa từng thấy và có nhiều nguy cơ gây rối ren chính trị xã hội, thậm chí có khả năng trở thành một cuộc nội chiến trong lòng nước Mỹ. Vì những lẽ đó họ đành phải miễn cưỡng rút đại quân ra khỏi Việt Nam.

Người Mỹ sau một thời gian cố gắng "Việt Nam hóa" những tác chiến quân sự, rốt cuộc chỉ cho ra lò một "sản phẩm" dở dang chưa thành, èo uột, dở sống dở chết. Lính kiểng tràn ngập quân ngũ. Họ nhập ngũ vì bị bắt lính hoặc vì muốn lĩnh lương Mỹ cho sinh kế, do đó tinh thần rệu rã không có ý chí chiến đấu.

Theo đó, giai đoạn sau hiệp định Paris 1973 đến năm 1975 chủ yếu là sự bám víu trong tuyệt vọng của Mỹ. Có lẽ miền Nam Việt Nam đối với họ trước đây đúng là "béo bở", nhưng lúc này thì như miếng gân gà, nhai thì khó, nuốt thì nghẹn, bỏ thì tiếc.

Dù vậy, chính phủ Mỹ vẫn nuôi dưỡng ngụy quyền của họ, tuy nhiên ngân khoản chi phí về sau ít dần do đa số thành viên trong Lưỡng viện Mỹ đã quá chán ngán cuộc chiến. Họ muốn Mỹ rút hẳn, rút hết, rút ra thật sự, nên nhiều người bỏ phiếu chống, không phê chuẩn chi thêm tiền cho chiến trường Việt Nam. Tình hình bi đát đến nỗi nhiều người trong giới cầm quyền Mỹ muốn hoàn toàn chịu thua và rút chân ra hẳn, bỏ rơi tay sai, "bỏ con giữa chợ".

Do đại quân của Mỹ đã rút về nước nên phong trào phản chiến cũng tạm lắng xuống, tuy nhiên người dân Mỹ và thế giới vẫn còn biểu tình ở nhiều nơi, chống lại những nỗ lực cuối cùng giữ miền Nam Việt Nam của Mỹ, họ muốn những bàn tay cuối cùng đang bám víu hãy buông hẳn "con mồi" này ra. Họ muốn tiền đóng thuế của họ được sử dụng cho nhân dân và xã hội Mỹ, họ không muốn tiền đóng thuế của họ bị chính phủ lãng phí ở một nơi xa xôi cách nước họ nửa vòng địa cầu, và tệ hại hơn, được sử dụng để nuôi quân đội Sài Gòn, một quân đội mà giáo sư F. Murray, giáo sư ngành báo chí tại trường Đại học Nam California (Southern California - USC) gọi là một đội quân nổi tiếng lành nghề "hiếp dâm và ăn cướp" hơn là chiến đấu, trong một bài viết về Chiến tranh Việt Nam của ông trên Thời báo Los Angeles (LA Times) năm 2002.

Giai đoạn 1973-1975 là giai đoạn kết thúc chiến tranh bằng vũ lực, trong đó có 2 sự kiện lớn: Một là trận đánh Thượng Đức ở tỉnh Quảng Nam bắt đầu khoảng tháng 7 năm 1974, và chiến dịch Đường 14 - Phước Long kéo dài từ ngày 13/12/1974 đến 6/1/1975 trong địa bàn tỉnh Phước Long để diệt bớt quân giặc, tạo thêm bàn đạp tiến công xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ tính mạng, tài sản của đồng bào. Hai sự kiện này cùng có một mục tiêu chung: Thăm dò khả năng, mức độ phản ứng của Mỹ, thử xem họ có sử dụng tới thực binh người Mỹ để chống đỡ hay không.

Kết quả là quân đội Việt Nam đã giải phóng tỉnh Phước Long và đường số 14 dài trên 100 km, hơn 1 ngàn lính Sài Gòn đầu hàng, quân Giải phóng phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, tịch thu nhiều quân trang, phương tiện, thuốc men. Chiến thắng Phước Long đã trở thành một tiền đề, cơ sở để tạo ra những chiến công khác trên con đường đi đến ngày toàn thắng.

Chiến dịch này còn cho Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam và các lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam biết là Hoa Kỳ sẽ ít có khả năng đem đại quân ứng chiến.

Sau năm 1973, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam đã giảm đột biến, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ 171.166 tấn/năm trong thời kỳ 1969-1972 giảm xuống còn 16.415 tấn/năm trong thời kỳ 1973-1975.

Đó là một trong những điểm bất lợi của Việt Nam sau năm 1973, nhưng Việt Nam còn có những thuận lợi khác: Quân từ miền Bắc giờ đây đã dễ dàng hành quân vào Nam bằng cơ giới trên Đường Trường Sơn cả ngày lẫn đêm, đèn pha sáng trưng mà không sợ bị Mỹ oanh kích.

Trong thời gian này, Đường Trường Sơn cũng đã được mở rộng hơn để bảo đảm cho việc cung cấp quy mô lớn cho chiến trường. Các trang thiết bị đạn dược và lương thực cũng đã đủ số trong các kho, từ kho của đơn vị chiến đấu đến kho hậu cứ và kho tại hậu phương miền Bắc. Xăng dầu đã được bơm thẳng theo tuyến đường ống cung cấp từ miền Bắc vào tận Bù Gia Mập tại miền Đông Nam Bộ và rất gần đến các kho đứng chân chiến đấu. Từ đây là giai đoạn phối hợp ăn ý, hiệp đồng tác chiến của quân dân ba miền cùng đánh giặc, chuyển quân dễ dàng và không còn ngại không quân Hoa Kỳ, lực lượng được xem là thiện chiến nhất thế giới, phá hoại và cản trở.

Một ưu thế đặc biệt nữa chính là tinh thần chiến đấu. Các binh sĩ quân Giải phóng nhận thức được đây chính là giai đoạn chấm dứt chiến tranh giành toàn thắng, nên khí thế lên rất cao và sẵn sàng xung trận. Trong khi đó tinh thần chiến đấu của lính ngụy cực kỳ suy nhược. Sau khi không còn đại quân Mỹ, các sĩ quan và binh lính ngụy đã thấy tương lai mờ mịt trước mắt, tâm trạng bi quan chán nản và tinh thần chiến đấu sa sút nghiêm trọng dẫn đến tình trạng đào ngũ, trốn lính rất nhiều, không kịp bắt lính bổ sung.

Ngày 8/12/1974 đến 8/1/1975, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam họp hội nghị mở rộng và ra nghị quyết về "Kế hoạch chiến lược 2 năm 1975-1976", dự tính hoàn thành giải phóng miền Nam trong 2 năm.

Bộ chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược: "Động viên nỗ lực lớn nhất của quân và dân cả hai miền thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị về mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam."

Tuy nhiên kế hoạch này đã đánh giá quân ngụy cao hơn năng lực thật sự của họ, nên sau này do sự yếu kém của ngụy quân, kế hoạch 2 năm đã trở thành cuộc tấn công và nổi dậy 55 ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Phần 3: 30/4/1975, ngày toàn thắng của dân tộc Việt Nam

Tháng 4 vốn là một tháng đầy ý nghĩa với nhiều ngày lễ lớn như lễ Phật Đản và lễ Phục Sinh, gắn liền với hai tín ngưỡng lớn trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; ngày giỗ tổ Hùng Vương, gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam; ngày sinh của nhà cách mạng Vladimir Lenin, gắn bó với lịch sử cách mạng Việt Nam; ngày thế giới phòng chống bom, mìn (4/4); ngày tưởng niệm các nạn nhân chiến tranh hóa học (29/4), ngày lễ quốc tế được công nhận bởi Liên Hiệp Quốc.

Lịch sử đôi khi thật kỳ diệu. Ngày 30/4 của đúng 30 năm trước ngày 30/4/1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, năm 1945, phát xít Đức sụp đổ, mở đường cho việc kết thúc Thế chiến II, mối đe dọa của chủ nghĩa phát xít được xóa bỏ. Ngày 30/4 năm 1492, Tây Ban Nha ủy nhiệm nhiệm vụ thám hiểm cho Christopher Columbus, mở đầu cuộc bành trướng không giới hạn khắp châu Mỹ và thế giới, tạo tiền đề thành lập liên bang Hoa Kỳ và mở rộng hệ thống thuộc địa toàn cầu.

Ngày 30/4 năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam càng ý nghĩa hơn khi chúng ta nhìn lại những ngày 30/4 trước đó trong lịch sử Hoa Kỳ:

  • Ngày 30/4/1789 - Tại hội trường Liên bang ở Phố Wall, New York, tướng George Washington tuyên thệ chức vụ tổng thống và trở thành tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ.
  • Ngày 30/4/1803 - Thực dân Pháp thất thế, đành phải bán rẻ lãnh thổ Louisiana cho đế quốc Mỹ với giá 15 triệu USD, tăng gấp đôi diện tích Hoa Kỳ.
  • Ngày 30/4/1812 - Lãnh thổ Orleans trở thành tiểu bang thứ 18 của Hoa Kỳ với tên Louisiana.
  • Ngày 30/4/1900 - Đúng 75 năm trước ngày 30/4/1975, đảo quốc Hawaii chính thức trở thành tiểu bang thuộc lãnh thổ Hoa Kỳ, với thống đốc là Sanford B. Dole.

Chữ viết của một người dân Sài Gòn vào tờ lịch ngày 30/4/1975 lịch sử


III.A. Chiến dịch Mùa Xuân - Chiến dịch Hồ Chí Minh


Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm bắt đầu từ ngày 5/3/1975 cho đến ngày 30/4/1975 khi những quân nhân Mỹ cuối cùng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam và "tổng thống" Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng và hạ lệnh buông súng, giải giáp.

Nhóm chiến dịch này bao gồm ba chiến dịch nối tiếp nhau: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngoài ra, còn có những chiến dịch nhỏ hơn nhưng diễn ra trên những địa bàn chiến lược như Long Khánh - Xuân Lộc, Trường Sa và các đảo trên Biển Đông, các trận đánh trên các tuyến phòng thủ từ xa của giặc như Tây Ninh - An Lộc - Dầu Tiếng, Phan Rang - Ninh Thuận.

Chiến dịch Mùa Xuân chủ yếu do quân dân miền Trung và miền Nam tiến hành, các lực lượng từ miền Bắc chỉ có Binh đoàn Quyết Thắng vào Nam tham gia trong những ngày cuối (chiến dịch Hồ Chí Minh), bao gồm: Các sư đoàn bộ binh 312, 320B, sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, trung đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin.

Sư đoàn 308 thuộc Binh đoàn Quyết Thắng cùng với 5 sư đoàn và 9 trung đoàn đều ở lại bảo vệ miền Bắc, đề phòng Trung Quốc manh động và Hoa Kỳ đột kích. Qua nhiều lời kể từ các nhân chứng sau này (Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh v.v.) đã cho thấy nguy cơ đối với miền Bắc những ngày này thật ra không phải là Hoa Kỳ, mà lại chính là Trung Quốc. Cho thấy sự sáng suốt của quyết định giữ quân ở lại bảo vệ miền Bắc, đề phòng mọi thế lực.
Ngụy quân "di tản chiến thuật" từ Thuận An đến Đà Nẵng (tháng 3/1975).

Chỉ trong khoảng 32 giờ, quân dân Việt Nam đã tiêu diệt thành công hệ thống phòng ngự chiến lược mới của giặc ở miền Trung. Quân khu I của ngụy bị xóa sổ. Sau trận thua to ở Đà Nẵng, quân ngụy hoàn toàn tuyệt vọng. Mỹ-Thiệu bàng hoàng. Tướng Fredrick C. Weyand được tổng thống Gerald Ford cử sang miền Nam chỉ huy, đốc thúc xây dựng hệ thống phòng thủ mới từ Phan Rang đến Cần Thơ nhằm bảo vệ đầu não Sài Gòn - thành trì cuối cùng của họ.

Ngày 3/4/1975, sau những cơn giận mất bình tĩnh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James R. Schlesinger và ngoại trưởng Henry Kissinger ở Washington vì sự chần chờ quá lâu của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn (vì chính phủ Mỹ muốn tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi"), Tổng thống Gerald Ford ra lệnh dứt khoát tìm cách hoàn thành, kết thúc cuộc di tản nội trong tháng 4/1975. Sau đó, Nhà Trắng lại ra lệnh cho cầu hàng không ngưng mọi hoạt động sau khi Martin đã rời đi.
Tổng thống Mỹ Gerald Ford (phải) nghe cố vấn Henry Kissinger (trái) và phó tổng thống Nelson A. Rockefeller (giữa) báo cáo tình hình chiến sự và kế hoạch di tản người Mỹ cùng các nhân viên người Việt khỏi Sài Gòn (28/4/1975).

Từ ngày 10/4/1975 Bộ chỉ huy quân Giải phóng đã tuyên bố với người Mỹ: "Quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho 'cố vấn' Hoa Kỳ rút về nước bình an vô sự", nhưng hàng ngàn người Mỹ vẫn tranh nhau bỏ chạy, lính ngụy nhiều trường hợp phải bám càng trực thăng Mỹ để chạy theo trong cơn hoảng loạn.

Trên tuyến phòng thủ Phan Rang - Xuân Lộc, tướng Fredrick Weyand cho lấy Phan Rang làm tuyến phòng thủ từ xa và muốn dùng nơi này làm bàn đạp để phản kích, chiếm lại những vùng đã mất. Lúc đó bản phúc trình từ Chính phủ đưa lên Quốc hội Hoa Kỳ về một khoản viện trợ quân sự khẩn cấp 722 triệu USD đang được bàn thảo. Theo Weyand, quân đội ngụy ít nhất cũng phải 1 lần chiến đấu, nếu thắng được 1 trận thì càng tốt; nếu tiếp tục rút lui nữa, sẽ làm mất phiếu ủng hộ của Quốc hội Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, đến ngày 16/4/1975, tuyến phòng thủ Phan Rang bị quân đội Việt Nam phá vỡ chỉ trong vòng 24 giờ. Thế tiến của quân Giải phóng như chẻ tre, từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4, các tiền đồn của Mỹ-ngụy tại Tây Ninh, An Lộc, Dầu Tiếng, Chơn Thành, Định Quán lần lượt thất thủ nhanh chóng, quân Giải phóng tiến quân đến đâu là quân ngụy đầu hàng hoặc bỏ chạy đến đó. Quân ngụy tại mặt trận Xuân Lộc rơi vào thế hở cả ba sườn phía Bắc, phía Tây và Tây Nam, rồi sau đó cũng thất thủ.

Ngày 18/4/1975, tổng thống Gerald Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Việt Nam. Ngày 20/4/1975, chính phủ Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hy vọng có thể thuyết phục được Quốc hội thông qua gói viện trợ khẩn cấp để cứu nguy chính quyền Sài Gòn, vì Thiệu lâu nay tuy được lòng chính phủ Mỹ, nhưng không được lòng nhiều người trong Quốc hội Mỹ.

Ngày 23/4/1975, dù Thiệu đã từ chức nhưng vẫn không có sự đổi ý từ Quốc hội, Chính phủ Mỹ đành tuyên bố chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, đến ngày 24/4/1975 Mỹ vẫn cố vớt vát, đề nghị xin ngưng bắn.... Các diễn biến dồn dập đó đều diễn ra cùng lúc với 5 cánh quân bao gồm khoảng 27 vạn bộ đội chủ lực và 18 vạn dân quân - tự vệ - du kích đang chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công thẳng vào thành trì cuối cùng của giặc xâm lược.

Ngày 26/4/1975, cuộc tổng công kích bắt đầu, các mục tiêu tấn công chìm trong bão lửa. Người Mỹ vội vàng di tản. Các sư đoàn ngụy quân bị đánh tan tành, người bị bắt sống, người đầu hàng, người cởi quân phục lẩn trốn vào các nhóm tàn quân đang bỏ chạy. Mỹ tìm kế hoãn binh, ngụy xin được thương lượng.... Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của các lực lượng vũ trang nhân dân trong trận đánh cuối cùng để kết thúc cuộc chiến tranh ròng rã 30 năm (1945-1975).

Các binh lính Thủy quân lục chiến Mỹ cố thủ để người Mỹ và các nhân viên người Việt trong Cơ quan Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) ở Sài Gòn di tản

Chính phủ Mỹ trước đó đã đưa một ông lão có tiếng trong sạch không tham nhũng là Trần Văn Hương lên thay Nguyễn Văn Thiệu để cố gắng thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ vốn đã quá chán nản với tình trạng tham nhũng của ngụy quyền Sài Gòn, nhưng rốt cuộc vẫn không thuyết phục được họ thông qua gói viện trợ quân sự khẩn cấp để giữ lại ngụy quyền.

Sau đó, theo các dàn xếp của các lực lượng thứ ba thực chất do cách mạng lãnh đạo, với danh nghĩa "lật đổ chính quyền của Thiệu mà không có Thiệu" (ý nói đây vẫn là chính quyền Nguyễn Văn Thiệu với đầy đủ bản chất và nhân sự của nó, chỉ khác mỗi người đứng đầu), và theo sự vận động của đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Dương Thanh Nhựt, em trai ruột của ông Dương Văn Minh, ông Dương Văn Minh đã lên làm "tổng thống" trên danh nghĩa từ ngày 28 tháng 4 để lo việc đầu hàng.
Quân nhân Mỹ đang chờ đợi trực thăng đến cứu thoát (29/4/1975)
Những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam từ sáng ngày 30/4/1975. Theo hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report (Báo cáo Hậu hành động) của thiếu tá lục quân James H. Kean, báo cáo các hành động của Lục quân Hoa Kỳ trong thời gian 17/4/1975 - 7/5/1975 và tác giả George R. Dunham trong tác phẩm US Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975), nằm trong loạt sách về lịch sử Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam, do Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ xuất bản năm 1990, tường thuật các hành động của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong giai đoạn 1973-1975, thì diễn biến như sau:

Ngày 30/4, Graham Martin rời Việt Nam từ 4:58 sáng. 7 giờ sáng những người lính cuối cùng của Mỹ bắt đầu rời khỏi Việt Nam. 7:53 sáng chiếc trực thăng chiến đấu cuối cùng của Mỹ chở 10 người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ bay khỏi Việt Nam và đáp xuống căn cứ quân sự USS Okinawa ở Nhật.

Sau khi 10 người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, thì đến 11:30 trưa, ngụy quyền sụp đổ và ngụy quân tan rã, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, nhưng đã đến tình thế này thì dù ông Minh có tuyên bố đầu hàng hay không thì cũng không thay đổi kết quả cuộc chiến. Hai tướng Mỹ cuối cùng bỏ chạy khỏi Việt Nam là Fredrick C. Weyand và John Murray, ngay từ trước chiến dịch Hồ Chí Minh.

Giám đốc CIA Tom Polgar, cùng ngồi với Đại sứ Graham Martin trên chiếc CH-53 trong cuộc tháo chạy, đã ghi lại nhận xét của mình ngày hôm đó: "Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không báo trước sức mạnh cường quốc toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải gặp lại lịch sử".

Tổng thống Gerald Ford, ngày 15/6/2000, khi trả lời thư của Colin Broussard, cựu binh Thủy quân Lục chiến Mỹ tại Việt Nam, đã tâm sự về một thực tế thất bại của Chiến tranh Việt Nam: "Tháng 4/1975 chắc chắn là một thời điểm khắc nghiệt, mãi mãi không làm phôi pha nỗi đau buồn nhất trong cuộc đời hoạt động chính trị của tôi. Tôi cầu xin để những tổng thống Mỹ sau này không bao giờ phải đứng trước những quyết định tàn nhẫn như tôi đã từng. 25 năm qua, tôi vẫn còn ray rứt và mãi mãi khóc thương cho 2.500 lính Mỹ tới bây giờ vẫn còn mất tích. Mỗi nước đều có hồn dân tộc được tôi luyện qua gian khổ. Họ có thể bị quân đội nước ngoài đô hộ, nhưng linh hồn của một dân tộc vĩ đại như Việt Nam thì mãi mãi sáng ngời."

Trong dinh tổng thống ngụy, một số chiến sĩ cách mạng được chuẩn tướng Sài Gòn Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến thẳng vào phòng khánh tiết gặp Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu. Khi thấy người của cách mạng đến, ông Dương Văn Minh đứng dậy nói: "Chúng tôi đang đợi các ông để bàn giao". Đại úy Phạm Xuân Thệ tuyên bố: "Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".

Ông Dương Văn Minh chấp nhận thực tế này, trao khẩu súng lục cho đại úy Phạm Xuân Thệ và đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của ông Minh.
Vệ binh ngụy có nhiệm vụ bảo vệ dinh tổng thống

Binh lính ngụy ở nông thôn quy hàng


Từ sáng ngày 30/4 cho đến lúc này tại trung tâm Sài Gòn đã có 34 điểm nổi dậy của dân chúng và lực lượng tại chỗ. Sau 11 giờ 30 phút ở 41 điểm lực lượng chủ lực chưa tới, song lực lượng tại chỗ tiếp tục nổi dậy.

Tại quận 3, tại phường cư xá Đô Thành, lúc 12 giờ ngày 30/4 khi lực lượng võ trang miền Nam tiến vào quận 3, ông Tư và ông Công, người địa phương, cùng một cán bộ biệt động của Z15 (lữ đoàn 316) dùng loa kêu gọi nhân dân nổi dậy, kêu gọi lính ngụy đầu hàng.
Cán bộ Mặt Trận làm công tác tư tưởng với tù binh ngụy
Chiến sĩ chăm sóc cho tù binh bị thương


Ngay chiều 30 tháng 4 hàng trăm đồng bào tình nguyện xin nhận công tác theo yêu cầu của cách mạng, hàng trăm người khác tự động ra đường thu gom cờ quạt, vũ khí, quân trang, quân dụng của lính ngụy ném bỏ đầy đường. Đồng bào treo đầy cờ Giải phóng trước nhà riêng, công sở và tự nguyện góp lương thực cho bộ đội.

Tại phường Bàn cờ quận 3, các cơ sở mật của cách mạng phát động quần chúng nổi dậy chiếm giữ các kho tàng của ngụy quyền, giữ gìn trật tự, an ninh, làm vệ sinh đường phố. Đồng bào thu gom được khoảng 3 ngàn khẩu súng các loại đem nộp cho cách mạng.

16 giờ ngày 30/4, phường Bàn Cờ tổ chức mít tinh, hàng chục ngàn người dân Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng và giới thiệu những người tốt vào chính quyền mới. Đến 17 giờ, thành lập xong các bạn phụ trách phường, khóm và tổ chức cho những người trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện.


Trưa 30/4, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng các sinh viên, giáo viên, trí thức Sài Gòn, theo lời kêu gọi của Mặt Trận, đi tới Đài phát thanh và phát biểu trực tiếp trên sóng, nhạc sĩ xúc động phát biểu và kêu gọi:

Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mà mơ ước của tất cả chúng ta đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này cũng như những điều mơ ước (của) các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất (thì) hôm nay chúng ta đã đạt được những kết quả đó. Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam này hãy… và hợp tác chặt chẽ với chánh phủ lâm thời miền Nam Việt Nam.

Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước. Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này là đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước của chúng ta.

Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ đến đây… những cái thái độ hòa giải tốt đẹp. Các bạn không có lý do gì sợ hãi để mà ra đi cả. Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập.

Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng Miền Nam Việt Nam này…gặp tất cả các anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời.

Hiện tại chúng tôi đang ở đài phát thanh Sài Gòn. Và tôi mong các bạn chuẩn bị sẵn sàng để đến đây góp tiếng nói, để lên tiếng để tất cả mọi người đều yên tâm và tôi xin tất cả các anh em sinh viên, học sinh của Miền Nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau; khóm phường đều kết hợp chặt chẽ để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến. Xin chấm dứt.

Tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn guitar, tôi xin hát lại cái bài Nối vòng tay lớn. Hôm nay, thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết:

Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la
Anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát
Quay cuồng trời rộng
Bàn tay ta nắm
Nối tròn một vòng Việt Nam….

Hân hoan trong niềm vui chiến thắng nên dù quá vội không mang theo đàn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn cất vang lời bài "Nối vòng tay lớn", một bài hát ý nghĩa và thích hợp để hát trong thời điểm đó. Và đây cũng chính là bài hát đầu tiên được phát lên sóng của Đài Phát thanh Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Người dân Sài Gòn xuống phố chào đón quân Giải phóng (30/4/1975).
Dân Sài Gòn xuống đường chào mừng quân Giải phóng

Buổi chiều 30/4, ông Nguyễn Hữu Thái, một nhân chứng lúc đó, đã kể lại với phóng viên Tiến Dũng của báo VNExpress năm 2011: "Chiều 30/4/1975, phần lớn người dân Sài Gòn đều túa ra đường để được tận hưởng bầu không khí hân hoan, phấn khởi của ngày thành phố được giải phóng. Những người nghe tin tức qua Đài Phát thanh Sài Gòn cảm thấy xúc động dâng trào khi nghe Trịnh Công Sơn hát 'Nối vòng tay lớn' trong giờ phút lịch sử của dân tộc".
Bà má Sóc Trăng nghe tin chiến thắng




oOo


Chỉ trong vòng 55 ngày, chiến dịch Mùa Xuân đã đuổi những người lính Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam và đánh sập ngụy quyền Sài Gòn, đây là một trong những chiến dịch thần tốc nhất trong chiến sử thế giới, một trong những sự sụp đổ nhanh nhất trong lịch sử thế giới, và sự tháo chạy hỗn loạn, vô trật tự, vô nguyên tắc, vô tổ chức và vô kỷ luật nhất trong quân sử thế giới.
Binh lính ngụy chuẩn bị ném bỏ quân phục và bỏ chạy.
Binh lính ngụy ném bỏ quân phục trên nhiều đường phố và làm những hành động mà cựu nhân viên tình báo CIA chi nhánh Sài Gòn Frank Snepp gọi là "cuộc tháo chạy tán loạn".

Nguyên nhân của hiện tượng đó chủ yếu là vì Hoa Kỳ đã giảm bớt viện trợ quân sự xuống còn hơn 700 triệu USD (tương đương với khoảng 4,6 tỷ USD ngày nay). Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chế độ Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong sách Từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập đã đưa ra nhiều thông tin gián tiếp cho thấy khả năng tồn vong của ngụy quyền Sài Gòn hoàn toàn nằm trong bàn tay người Mỹ và phụ thuộc hoàn toàn vào sự cưu mang của chính phủ Hoa Kỳ, cụ thể bản báo cáo mà Nguyễn Văn Thiệu đã đọc:

"Nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD (giá thời đó) thì có thể giữ được các vùng đông dân cư tại bốn vùng chiến thuật.

Nếu mức viện trợ quân sự xuống 1,1 tỷ USD thì có thể không giữ được Quân khu I.

Nếu mức viện trợ quân sự còn 900 triệu USD thì khó giữ được Quân khu I, Quân khu II.

Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 750 triệu USD thì chỉ có thể phòng thủ một vài khu vực.

Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 600 triệu USD thì chỉ còn có thể giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long."


Nhưng rốt cuộc Hoa Kỳ đã viện trợ 700 triệu USD mà không một khu vực nào cầm cự nổi, kể cả Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long. Và đó chỉ là viện trợ quân sự, chưa tính viện trợ kinh tế. Cũng theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, có lúc Nguyễn Văn Thiệu đã nói cay đắng với một dân biểu Mỹ rằng: "Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo." Sau đó, Thiệu nhờ tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đi xin thêm tiền và sau này thuật lại trong quyển sách trên, ông Nguyễn Tiến Hưng đã ví việc này với "cái nhục của kẻ đi cầu xin".
Gia đình đoàn tụ. Bà má ôm người con tham gia kháng chiến thành công, nay trở về gặp lại.

Bắc Nam sum vầy. Bà mẹ miền Bắc (trái) và bà má miền Nam (phải) ôm nhau trong ngày toàn thắng.

III.B. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những trùng hợp kỳ diệu của lịch sử


Nhìn lại cuộc trường kỳ kháng chiến "2 trong 1" kéo dài 30 năm của dân tộc (1945-1975), thì có thể thấy một hiện tượng kỳ lạ: Hai chiến dịch quyết định thắng bại cuộc chiến là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Mùa Xuân đều diễn ra 55 ngày đêm. Một chiến dịch đưa tới kết quả toàn thắng giặc Pháp, giải phóng miền Bắc, giải phóng nửa nước, và một chiến dịch đưa tới kết quả toàn thắng giặc Mỹ, giải phóng nốt những vùng tạm chiếm còn lại ở miền Nam, hoàn thành sứ mạng lịch sử giải phóng dân tộc, giành lại hoàn toàn độc lập, hòa bình, thống nhất và sạch bóng quân xâm lược, đều là 55 ngày.

Trong cả hai chiến dịch lịch sử đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đều có vai trò quyết định, với hai quyết định chiến thuật quân sự sáng suốt trong đời:

  • Quyết định rút pháo ra để thay đổi chiến thuật "đánh nhanh - giải quyết nhanh" sang "đánh chắc - tiến chắc", đánh bóc vỏ từ từ trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là quyết định làm nên chiến thắng, vì nếu không rút pháo ra mà cứ theo đà, theo thế tiến đánh kiểu thí mạng thì sẽ tổn thương to lớn và khả năng rất cao là sẽ thất bại.
  • Quyết định chỉ thị "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng", trong chiến dịch Mùa Xuân. Trong khi tình hình bình thường lúc đó nếu tiến quân theo lối thông thường thì tốc độ đã không nhanh như vậy, có thể phải tốn nhiều ngày hơn, nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp cố gắng thu gọn và chỉ thị phải đánh trong 3 ngày, đẩy lên cao nhất yếu tố tốc độ.
Bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gởi quân dân miền Nam ngày 7/4/1975.


Nhiều tài liệu, sách báo trong và ngoài nước cho rằng trong chiến dịch Mùa Xuân nếu quân đội Việt Nam không cố gắng tăng tốc hành quân lên nhanh nhất có thể, khai thác và tận dụng triệt để sự hoảng loạn tinh thần, sụp đổ tâm lý, không còn lòng nào chiến đấu của ngụy quân mà xốc tới thừa thắng xông lên, làm cho các hệ thống phòng ngự của địch bị sụp đổ dây chuyền như domino, hàng hàng lớp lớp đào ngũ bỏ chạy, mà chậm chạp trì trệ, thì ngụy quân có khi đã trấn tĩnh lại, lập lại trật tự hàng ngũ và kịp thời thành lập các quân đoàn án ngữ, phòng thủ các điểm hiểm yếu, then chốt, câu giờ để quân đội Mỹ có thời gian mà hành sự. Ngày nay, các tài liệu giải mật còn cho thấy thêm yếu tố Trung Quốc. Họ có thể thừa cơ "đục nước béo cò" nếu quân Việt Nam không đủ nhanh chân nhanh tay.

Như vậy, nếu không có chỉ thị đó của đại tướng Võ Nguyên Giáp về việc tăng tốc hành quân lên tối đa nhất có thể, khai thác và tận dụng cao nhất tình hình thuận lợi và sự hoảng loạn sụp đổ của quân địch, thì có thể xảy ra những hiện tượng sau:

  • Quân đội ngụy có thời gian hoàn hồn lại và tái bố trí, điều chỉnh lại lực lượng, hợp quân thành lập các quân đoàn liên kết phòng thủ các tuyến trọng yếu.
  • Hoa Kỳ có thời gian tính toán, quyết định, hành động, trực tiếp can thiệp để giữ ngụy quyền không bị sụp đổ.
  • Trung Quốc sẽ thấy sự thuận lợi, dễ dàng nổi máu tham, và nếu họ nổi lòng tham thật thì họ sẽ có thời gian để "đục nước béo cò". Nếu hải quân Trung Quốc đến quần đảo Trường Sa trước thì chưa chắc hải quân Việt Nam giành lại được.
Với những khó khăn như vậy thì dù thành công giải phóng được miền Nam thì cũng sẽ chịu thương vong lớn hơn nhiều cho binh lính cả ta và địch cũng như dân thường, chưa kể những tổn thất vật chất, có khi phải mấy tháng sau mới hoàn toàn giải phóng được hết miền Nam, lúc đó quần đảo Trường Sa có lẽ cũng đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ lâu. Chưa kể Hoa Kỳ có thể nghĩ tới chuyện kéo quân quay lại.

Do đó, hai quyết định lịch sử đó của đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hai thời điểm lịch sử, có tính quyết định trọng đại đó, có thể nói đã quyết định kết quả hai cuộc chiến tranh giữ nước lớn nhất, khó nhất trong lịch sử Việt Nam. Nếu không có hai quyết định đó thì không ai biết chuyện gì xảy ra, diễn biến lịch sử tiếp theo là gì, có thể diễn biến vẫn không thay đổi, nhưng nhiều máu đổ hơn, nhiều người ngã xuống hơn là điều không nghi ngờ gì.

III.C. Các âm mưu "đục nước béo cò" của Trung Quốc - Khmer Đỏ


Thời điểm này Trung Quốc và đàn em Khmer Đỏ đã bộc lộ ý đồ "đục nước béo cò" muốn nhân cơ hội chiến sự ở Việt Nam mà mưu tính lấn chiếm đất đai, biển đảo, thậm chí duy trì chia cắt Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tượng này có nguồn gốc từ các thời điểm trước đó, và dần leo thang đến tháng 4 năm 1975.

Năm 1970, CIA Mỹ cung cấp cho Nhà Trắng và Lầu Năm Góc nhiều tài liệu mật về sự mâu thuẫn sâu sắc giữa Trung Quốc và Liên Xô. Từ những hồ sơ này, các nhà phân tích CIA kết luận: Bất đồng Xô - Trung sẽ kéo dài. Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Henry Kissinger đã nhanh chóng chớp thời cơ để bắt đầu lộ trình phục hồi quan hệ với Trung Quốc. Bắt đầu từ những năm 1970, Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu "đi đêm" với nhau, mà điểm nhấn là chuyến thăm Bắc Kinh của tổng thống Nixon năm 1972, trong lần gặp gỡ này Nixon và mật đàm với Mao Trạch Đông về nhiều vấn đề, không những về quan hệ song phương, mà còn về quan hệ đa phương trên phạm vi toàn cầu và khu vực, đặt trọng tâm vào bán đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, trong đó có tâm điểm Việt Nam. Sau đó là nhiều cuộc mật đàm giữa ngoại trưởng Kissinger và thủ tướng Chu Ân Lai, chủ tịch Hoa Quốc Phong và các lãnh đạo Trung Quốc, như nhiều hồ sơ được bạch hóa về sau, cũng như các hồi ký của cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon, ngoại trưởng Henry Kissinger và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đã đề cập đến những vụ "đi đêm", mật đàm với Trung Quốc.

Năm 1974, tình hình chiến trường càng lúc càng tiêu cực, bi quan, người Mỹ cho rằng khó giữ nổi miền Nam Việt Nam, sớm muộn gì cũng thua và mất miền Nam Việt Nam, nên họ đã thỏa thuận nhượng lại Hoàng Sa cho Trung Quốc để đổi lấy những lợi ích chính trị, kinh tế, và củng cố, thắt chặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, hình thành thái cực Mỹ - Trung chống Việt - Xô. Đó là thời kỳ Trung - Xô xung đột và Trung Quốc "liên Mỹ đả Việt" (聯美打越).

Đó là lý do vì sao khi hải quân Trung Quốc được Mỹ bật đèn xanh bất ngờ tấn công vào Hoàng Sa của Việt Nam đang dưới sự bảo hộ của Mỹ, hải quân ngụy sau khi buộc phải tự vệ thì có lệnh phải triệt thoái, và họ đã chạy khỏi và bỏ lại toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, các lực lượng hải quân hùng hậu quanh đó bị Nguyễn Văn Thiệu hạ lệnh án binh bất động, những tàu chiến đang trên đường ra Hoàng Sa thì bị gọi quay về. Hạm đội 7 của Mỹ đã không chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc.

Trong trận đánh nhỏ trước khi rút lui, theo thống kê của Thời báo New York trong loạt bài về sự kiện này năm 1974 ngay sau khi sự kiện xảy ra, thì quân đội Sài Gòn có 4 tàu chìm hoặc hư hại, 138 quân lính bị thương vong hoặc bị bắt sống, quân đội Trung Quốc có 4 tàu bị hư hại, 18 quân lính thương vong. Sau trận đánh, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cho đến ngày nay.

Có câu "đánh tớ phải nể mặt chủ", Trung Quốc đã an bài trước với Hoa Kỳ sau hậu trường, được Mỹ gật đầu, thì mới có thể ngang nhiên, công khai đánh thẳng vào quần đảo Hoàng Sa ngay trước mắt Hạm đội 7 của Mỹ như vậy. Lúc đó Trung Quốc không muốn và không dại gì làm mất lòng Mỹ trong khi quan hệ hai nước đang phục hồi và phát triển tốt đẹp. Mỹ vừa hợp tác, vừa lợi dụng Trung Quốc để chia rẽ khối xã hội chủ nghĩa châu Á và gây hại cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Tóm lại, Trung Quốc đã sớm biết từ trước là Hạm đội 7 của Hoa Kỳ sẽ không chống lại cuộc tấn công của họ.

Trung Quốc nói là để "tự vệ", nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một hành vi "đục nước béo cò", thừa lúc miền Nam Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa đang bị Mỹ xâm lược để trục lợi. Đó là một hành động xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam để về trước mắt: cướp Hoàng Sa, về lâu dài: khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng bước thực hiện ý đồ bá chủ Biển Đông, biến Biển Đông thành "ao nhà" ở sân sau của mình.

Hành động xâm lược của Trung Quốc đã có tính toán từ trước và được sự thỏa hiệp của Hoa Kỳ. Vì vậy, khi đó người Mỹ ở Sài Gòn đã trao đổi với Nguyễn Văn Thiệu và hải quân Mỹ ở gần đó đã được lệnh nhắm mắt làm ngơ cho Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa, đồng thời các lực lượng hải quân ngụy đang trên đường tiếp viện, tái chiếm Hoàng Sa đều bị bắt quay về đất liền.

Ngày 20/1/1974, chính phủ Tây Ninh của Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức phản đối hành động này của Trung Quốc. Ngày 26/1/1974, chính phủ Tây Ninh tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải. Ngày 14/2/1974, Cộng hòa miền Nam Việt Nam khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là chủ quyền của Việt Nam.
Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông và Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon
Chủ tịch Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Jimmy Carter

Tháng 4 năm 1975, đứng trước thực tế Trung Quốc đã dè chừng và dồn quân phòng thủ Hoàng Sa, đồng thời cho hải quân, cùng có hành động như lực lượng hải quân của Đài Loan, Indonesia, Philippines, Malaysia âm mưu xâm chiếm các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa một khi quân ngụy Sài Gòn giải tán. Hải quân Nhân dân Việt Nam đã khẩn trương triển khai chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông, để giải phóng hoặc tiếp quản thật nhanh những vùng này trước khi Trung Quốc và các nước ngoài "đục nước béo cò".

Chiến dịch nhỏ này là một phần của chiến dịch Mùa Xuân năm 1975, diễn ra trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1975. Mục tiêu của chiến dịch là quần đảo Trường Sa và các đảo ven biển miền Nam mà quân Sài Gòn đang đồn trú và một số đảo do quân Khmer Đỏ chiếm đóng từ trước.

Theo các tác giả Nguyễn Văn Đấu, Dương Thảo, Đặng Văn Tới trong sách "Bộ Tham mưu Hải quân - Biên niên sự kiện (1959-2004)", NXB Quân đội nhân dân xuất bản năm 2004, thì ngày 9 tháng 4 năm 1975, đài trinh sát kỹ thuật của Quân đội Nhân dân Việt Nam cướp được bức điện của quân ngụy đồn trú trên đảo Nam Yết gọi về đất liền yêu cầu tăng viện và điện trả lời của Bộ Tổng tham mưu ngụy với nội dung: "Không có lực lượng tăng viện".

Nhận được tin này, Quân ủy Trung ương QĐNDVN điện cho Bộ tư lệnh tiền phương quân chủng Hải quân đặt tại Đà Nẵng: "Có tin địch chuẩn bị rút khỏi các đảo ở Trường Sa. Kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân đội nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm."

Khoảng 2 ngàn chiến sĩ hải quân Việt Nam trong các tàu đánh cá trá hình đột kích bất ngờ vào Trường Sa và phối hợp với cuộc tổ chức nổi dậy vượt ngục đồng loạt ở Côn Đảo, trong đánh ra - ngoài đánh vào hải quân ngụy và quân Khmer Đỏ, một bộ phận lớn quân ngụy đã đầu hàng, nhưng trong đó có một số vẫn ngoan cố chống cự. Kết quả quân ngụy có 187 người thương vong, 557 người bị bắt sống. Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng loại khỏi vòng chiến đấu 284 lính Khmer Đỏ và bắt sống hơn 400 kẻ khác

Trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, tuy ban đầu không nằm trong kế hoạch của chiến dịch Hồ Chí Minh, nhưng trước các hoạt động "đục nước béo cò" ngoài dự tính của Khmer Đỏ, QĐNDVN đã triển khai các hoạt động quân sự đánh đuổi quân Khmer Đỏ ra khỏi những vùng bị họ lấn chiếm ở miền Tây Nam Bộ.

Ngay sau khi ngụy quân tại đồng bằng sông Cửu Long tan rã và đầu hàng Mặt Trận, từ ngày 3 đến ngày 12/5/1975, Khmer Đỏ đã lợi dụng khoảng trống quản lý tại các địa phương trên khu vực biên giới giữa các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc của Việt Nam với các tỉnh Takeo và Campot của Campuchia, sử dụng quân chính quy mở các cuộc tấn công lấn chiếm nhiều địa điểm. Đặc biệt là khu vực Ba Chúc (huyện Tri Tôn), Phú Cường, Phú Hiệp (huyện Tịnh Biên), thị xã Châu Đốc, huyện lỵ An Phú; quân Khmer Đỏ đã sát hại trên 500 thường dân Việt Nam. Tại Tây Ninh, quân Khmer Đỏ cũng tấn công lấn chiếm nhiều địa điểm tại Xa Mát, Ta Nốt, Lò Gò (huyện Tân Biên), Phước Thạnh, Phước Tân, (huyện Châu Thành), Cây Me, Mộc Bài (huyện Bến Cầu), sát hại hàng trăm thường dân Việt Nam.

Song song với các chiến dịch chiếm lại các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Polovai, quần đảo Nam Du trên Vịnh Thái Lan, bộ tư lệnh Quân khu 9 đã sử dụng sư đoàn 4 bộ binh được tăng cường trung đoàn hải quân đánh bộ 101 từ Bộ tư lệnh hải quân mở cuộc tấn công mạnh mẽ vào quân Khmer Đỏ. Ngày 7 tháng 5, giải phóng Châu Đốc. Đến đầu tháng 6, các đơn vị này đã giải phóng toàn bộ khu vực biên giới Tây Nam bị quân Khmer Đỏ lấn chiếm.

Cùng thời điểm đó, Trung Quốc còn tìm cách đi cửa sau để tiếp xúc tướng Dương Văn Minh, "tổng thống" trong 3 ngày cuối của chế độ Sài Gòn, có ý chống lại cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân của quân dân miền Nam Việt Nam, ngăn cản Việt Nam thống nhất. Văn kiện "Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua" của Bộ ngoại giao Việt Nam do NXB Sự Thật xuất bản vào tháng 10 năm 1979 đầu tiên công bố chuyện mờ ám này. Sau này, tướng Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Hữu Hạnh, "dân biểu" Lý Quý Chung và nhiều cựu chính khách, tướng tá, sĩ quan quân đội Sài Gòn cũng thừa nhận chuyện này.

Ngày 28/4/1975, ngay sau khi tân "tổng thống" Dương Văn Minh vừa thu âm xong bản tuyên bố của mình với yêu cầu cả hai bên ngưng bắn, thương lượng để bàn giao chính quyền thì ông Francois Vanussème, tùy viên quốc phòng và an ninh của đại sứ quán Pháp ở Sài Gòn xuất hiện. Ông này yêu cầu ngưng phát cuộn băng và đưa ra một đề nghị khiến ông Dương Văn Minh phải kinh ngạc: Chính quyền mới do ông Dương Văn Minh đứng đầu hãy kêu gọi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa can thiệp, ngăn chặn cộng sản Việt Nam tiến vào Sài Gòn.

Ông Vanussème ám chỉ xa gần nói "có những nguồn tin ở Washington, Paris và Bắc Kinh" cho biết Trung Quốc không ủng hộ giải pháp 1 nước Việt Nam thống nhất. Ông ta còn khẳng định: "Quân đội Trung Quốc sẽ vào giúp các ông đứng vững". Tuy nhiên, tướng Minh đã từ chối đề nghị của Vanussème và nói: "Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc." Sau khi Vanussème đi khỏi, ông Dương Văn Minh than với các cộng sự: "Mình đã bỏ Pháp đi theo Mỹ, bây giờ nó lại xui mình đi theo Tàu. Thật là chán quá." Sở dĩ người Trung Quốc muốn thông qua người Pháp là vì ông Dương Văn Minh là một người thân Pháp, đã từng phục vụ trong quân đội Pháp.

Đó là lý do mà trong những ngày miền Nam sôi sục khí thế, thì ít ai để ý lúc đó Trung Quốc đã tập kết trọng binh một cách bất thường ở biên giới phía Nam, quân đội áp sát biên thùy, tạo ra áp lực quân sự làm nóng biên giới. Trong khi lực lượng võ trang miền Nam Việt Nam đang tiến quân vào giải phóng thành đô, thì lực lượng biên phòng miền Bắc Việt Nam phải đặt trong tình trạng báo động với một tâm trạng hoang mang không hiểu ông hàng xóm định làm gì.

Song dù trước họng súng kẻ địch trước mắt và kẻ thù giấu mặt rình rập đâm lén sau lưng, quân dân ba miền Việt Nam vẫn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, giành lại trọn vẹn độc lập, thống nhất và hòa bình lâu dài cho đất nước.
Quảng trường thị xã Sóc Trăng trong ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng

Quần chúng nông thôn chờ đón những người chiến thắng từ nhà tù Mỹ-ngụy trở về.

Phần 4: Tổng kết cuộc chiến tranh Mỹ - Việt 1954-1975

Các mục chính:

IV.A. Hậu quả chiến tranh

IV.B. Chiến tranh tâm lý của Mỹ ở Việt Nam

IV.B-1. Tố Cộng

IV.B-2. "Thảm sát ở Huế"

IV.C. Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận

IV.D. Một số ngộ nhận thường thấy trong cuộc chiến

IV.E. Tình nghĩa giữa Việt Nam với nhân dân Mỹ và thế giới

IV.E-1. Ngọn lửa Morrison

IV.E-2. Biểu tượng Martin Luther King

IV.F. Nguyên nhân chiến thắng

IV.F-1. Nguyên nhân sâu xa

IV.G. Ý nghĩa chiến thắng

IV.G-1. Giải phóng hoàn toàn miền Nam

IV.G-2. Thống nhất đất nước
Trước khi bùng nổ cuộc chiến lịch sử với Việt Nam, Hoa Kỳ đã trải qua khoảng 150 cuộc chiến với hàng ngàn chiến dịch, hàng vạn trận đánh từ năm 1776 đến 1953, trong suốt quãng thời gian dài đó, quân đội Hoa Kỳ chưa thua 1 cuộc chiến nào.

Tại Việt Nam năm 1954, Pháp chưa đi - Mỹ đã đến. Say men bách chiến bách thắng, nhà cầm quyền Mỹ đã chọn sai đối tượng ngay từ đầu khi họ chọn Việt Nam làm đối tượng tiến hành chiến tranh xâm lược. Họ vào một quốc gia có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời, và tồn tại, độc lập, tự chủ sau bao nhiêu nghiệt ngã của thời cuộc. Sau 1000 năm Bắc thuộc và 100 năm Pháp thuộc, dân tộc Việt Nam đã phải gồng mình đứng lên chống quân xâm lược mới.

Trải qua 177 chiến dịch, bao gồm 130 chiến dịch trên bộ, 34 chiến dịch trên không, và 13 chiến dịch trên biển, Chiến tranh Việt Nam (cách gọi theo góc nhìn Mỹ), trở thành cuộc chiến đầu tiên và đang là duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà người Mỹ đã thua.

Thường trong các cuộc chiến tranh, phe tấn công xâm lược hầu như không bao giờ thừa nhận chiến bại (đặc biệt là Trung Quốc mấy ngàn năm nay). Và kết quả thắng bại trong các cuộc chiến cũng thường có những tranh luận, quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu quốc tế. Nhưng đối với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam thì gần như tất cả nhà sử học, nhà quân sự, nhà lãnh đạo, chính trị gia Hoa Kỳ và quốc tế, bao gồm 5 đời tổng thống Mỹ, Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara, ngoại trưởng Henry Kissinger v.v. đều nhìn nhận là Mỹ đã thua cuộc chiến này.

Chỉ có 1 người luôn khăng khăng không dám chấp nhận sự thật rằng Mỹ đã chiến bại, đó là đại tướng William Westmoreland, tổng tư lệnh liên quân ở Việt Nam. Những thất bại của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đỉnh cao là chiến dịch Mậu Thân, đã làm cho Westmoreland bị cách chức, đây là một vết nhơ và nỗi nhục trong binh nghiệp của ông ta, và là một tỳ vết cho gia đình có truyền thống quân ngũ của ông ta. Ông ta bị thân bại danh liệt, danh dự cá nhân và gia đình tiêu tan, sự nghiệp quân sự và cả chính trị đã tiêu tan trong Chiến tranh Việt Nam.

Trong Chiến tranh Việt Nam, sau nhiều thất bại và chịu nhiều áp lực nóng hổi từ chính phủ, Westmoreland đã "không vui", sau khi bị cách chức ngay sau đợt 1 của cuộc tổng tấn công chiến lược năm Mậu Thân 1968, ông ta càng cay đắng. Và tâm lý cay đắng không cam lòng đó đã đi theo và ám ảnh Westmoreland suốt quãng đời sau này. Khi trả lời phỏng vấn phim tài liệu nổi tiếng Hearts and Minds (Trái tim và khối óc) năm 1974, khi được hỏi về các tội ác, thương vong do người Mỹ gây ra ở Việt Nam, để giảm nhẹ tội ác, Westmoreland nói: "Người Á Đông không đặt cao giá trị sinh mạng họ như người phương Tây. Chúng ta đánh giá cao sinh mạng và giá trị con người. Họ không quan tâm đến sinh mạng và giá trị con người".

Trong lần trả lời phỏng vấn tạp chí George năm 1998, khi được hỏi về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được đông đảo giới quân sự quốc tế đánh giá là một thiên tài quân sự, Westmoreland đã lúng túng trả lời một cách vụng về: "Ừ thì dĩ nhiên ông ta là một đối thủ xứng tầm. Để tôi nói thêm là Giáp đều luyện quân theo đơn vị thấp với chiến thuật du kích, nhưng ông ta cứ quyết phải xua quân tiến hành chiến tranh đơn vị cao, làm cho quân của ông ta bị tổn thất kinh khiếp. Với trách nhiệm của ông ta, đến năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất, cái gì, hình như khoảng nửa triệu lính? Ông ta đã công bố điều này? Sự không quan tâm đến sinh mạng con người đó có thể làm nên một đối thủ tạm được, chứ nó không làm nên một thiên tài quân sự. Một tư lệnh Mỹ mà mất nhiêu đấy lính khó có thể tồn tại trong quân ngũ hơn vài tuần."

Theo danh sách đang cập nhật, bổ sung của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ, và Tạp chí Lịch sử Quân sự Việt Nam, tài liệu của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương thì tổng thương vong của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam là 365.157 quân.

Trong số hơn 36 vạn quân Mỹ thương vong, có 58.168 lính chết trong lúc giao tranh (kill in action). Bản danh sách đầu tiên năm 1982 là gồm 57.939 người, và 1.875 người vẫn còn mất tích (tính đến năm 2004).

Trong số 58.168 người Mỹ tử trận, có 7.878 sĩ quan. Trong số sĩ quan chết trận, có 426 tư lệnh và sĩ quan chỉ huy. Trong số đó có 37 người cấp tướng. Sự tổn thất to lớn của Mỹ ở Việt Nam đã vượt Thế chiến I và chiến tranh Triều Tiên.

Có hơn 6 triệu người Mỹ sinh hoạt, hoạt động ở Việt Nam. Trong số những người Mỹ đó có 2.709.918 người mặc đồng phục (in uniform) hoặc/và phục vụ khu vực giao tranh. Trong số những người đó có khoảng 55-60 vạn binh lính phục vụ cho chính phủ Mỹ ở Việt Nam. Tổng số cựu quân nhân chiến tranh Việt Nam chiếm 9,7% cả thế hệ của họ....

Đối với quân đội Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam căng thẳng hơn cả Thế chiến II. Trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) tốn khoảng 40 ngày chiến đấu trong 4 năm. Nhưng trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tốn khoảng 240 ngày chiến đấu trong 1 năm nhờ chiến thuật Trực thăng vận.

Đi kèm theo sự tổn thất to lớn về sinh lực, nhân mạng là sự phá sản của 3 chiến lược chiến tranh (Đặc biệt, Cục bộ, Việt Nam hóa), 2 chiến lược tác chiến (Tìm và Diệt - Search and Destroy [S&D], Quét và Giữ - Clear and Hold), chiến lược Quét và Giữ (Clear and Hold) được tướng Creighton Abrams áp dụng tại Việt Nam, thay cho chiến lược Tìm và Diệt của Westmoreland, sau khi ông thay thế Westmoreland làm tổng tư lệnh liên quân sau thất bại chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Quét và Giữ về cơ bản là một chiến lược chống nổi dậy và chống chiến tranh du kích, bao gồm 3 yếu tố: Các chiến dịch quân sự - dân sự phối hợp, chiến dịch quân sự tác chiến, và chiến tranh thông tin.

Ngoài ra, 3 loại hình chiến tranh công nghệ cao là chiến tranh điện tử (electronical warfare), chiến tranh hóa học (chemical warfare), và chiến tranh khí tượng (weather warfare), cùng với 2 chiến thuật quân sự Trực thăng vận và Thiết xa vận đều bị phá sản hoàn toàn ở Việt Nam. Đặc biệt chiến thuật Trực thăng vận sau này không còn được Mỹ sử dụng nữa, mà chuyển hẳn sang chuyển quân bằng máy bay phản lực hoặc xe tăng. Chiến trường Việt Nam đã đưa đến cái chết hoàn toàn cho chiến thuật Trực thăng vận thịnh hành một thời, đặc biệt sau chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.

Cuộc chiến tranh lịch sử này đã in sâu vào lòng công chúng Mỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã đi vào văn hóa đại chúng như là một "hội chứng Việt Nam". Tại Mỹ có hơn 30 ngàn sách, tiểu thuyết, truyện tranh viết về Chiến tranh Việt Nam; có 135 nhạc phẩm về Chiến tranh Việt Nam, gồm có 96 ca khúc phản chiến được lưu hành không chính thức, trong đó có 2 bài hát về cuộc thảm sát Đại học Tiểu bang Kent, khi cảnh sát Mỹ xả súng vào các sinh viên biểu tình ôn hòa phản đối chiến tranh (bài "Ohio" sáng tác năm 1970 và "Student Demonstration Time" năm 1971).

Tổng cộng có 64 phim điện ảnh Hollywood về Chiến tranh Việt Nam (bao gồm 6 phim trong cuộc chiến và 58 phim sau cuộc chiến). Có 8 phim tài liệu về Chiến tranh Việt Nam (gồm 4 phim trong cuộc chiến và 4 phim sau cuộc chiến). Đó là không tính các phim ảnh tâm lý chiến quá lộ liễu chiếm phần lớn nội dung như phim "Chúng tôi muốn sống".

Có 54 trò chơi thương mại về Chiến tranh Việt Nam, trong đó có 47 trò chơi điện tử, bao gồm 37 trò chơi cho các máy Nintendo, Sega, Playstation và 10 trò chơi máy tính.

Hầu hết các sản phẩm văn hóa của người dân Mỹ đều nói lên rõ nét những yếu tố chính trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, như bản chất cuộc chiến, phong trào phản chiến, và tội ác chiến tranh.

Trong bộ truyện tranh Watchmen, một trong những thương hiệu truyện tranh lớn nhất ở Mỹ, có câu chuyện về việc trong khi Mỹ đang thua thì tổng thống Richard Nixon đã mời được tiến sĩ siêu nhân Manhattan can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và giúp quân đội Mỹ thành công bình định miền Nam, sau đó xâm lược nốt miền Bắc. Kết quả Việt Nam trở thành tiểu bang thứ 51 của Mỹ.

Trong bộ phim danh tiếng Forrest Gump, nhân vật chính là một người thiểu năng trí tuệ. Tuy vậy, khi sang Việt Nam chiến đấu anh lại trở thành anh hùng khi cứu được trung đội trưởng thoát chết sau một trận đánh. Khi trở về, anh lại tham gia phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam cùng người yêu.

Trong bộ phim X-Men Origins: Wolverine, người sói Wolverine, một trong những nhân vật chính trong đội siêu anh hùng X-Men, đã từng chiến đấu và gây các tội ác chiến tranh, hãm hiếp trẻ em ở Việt Nam.


IV.A. Hậu quả chiến tranh


Theo các hồ sơ, tài liệu của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, sau đây là các loại bom mà không quân Hoa Kỳ sử dụng ở Việt Nam:

  • Bom phá MK-81, MK-82, MK-83, MK-84, M117A1, T55-E6 sử dụng để diệt mục tiêu bằng sóng xung kích và mảnh của vỏ bom.
  • Bom mảnh sử dụng các mảnh thân bom để tiêu diệt mục tiêu lộ thiên hoặc thiết giáp hạng nhẹ khi nổ.
  • Bom xuyên sử dụng để diệt các mục tiêu bọc thép, phá hủy những công trình kiên cố, đường hầm, địa đạo, công trình bê tông cốt thép bằng cách xuyên vào mục tiêu và nổ.
  • Bom cháy sử dụng để diệt mục tiêu, sát thương sinh lực, đốt cháy nhà cửa, cây cối.
  • Bom hóa học sử dụng để diệt sinh lực hoặc gây nhiễm độc địa hình và các phương tiện kỹ thuật bằng chất độc quân sự. Các loại bom hóa học Mỹ ném xuống Việt Nam thường chứa chất độc kích thích CS, chất độc tâm thần BZ, LSD, Mescalin pxyloxin….
  • Bom phát quang thường dùng để phát quang nhanh khu vực rừng rậm, mặt đất để dọn bãi cho trực thăng đổ bộ và bố trí trận địa pháo.
  • Bom chống tăng dùng hiệu ứng nổ lõm để diệt xe tăng, mục tiêu bọc thép khác và kho chứa….
  • Bom chùm thường sử dụng để sát thương diện rộng, có kết cấu bom mẹ chứa bom con.

Miền Bắc điêu tàn dưới bom Mỹ

Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội Bùi Hồng Lĩnh cho biết kết quả điều tra trên cả nước có khoảng 66.000 km2 còn tồn đọng vật liệu bom, mìn. Ước tính còn khoảng hơn 600.000 tấn bom mìn đang tồn tại dưới đất. Hiện mới chỉ có khoảng 20% lượng bom, mìn được tháo gỡ. Bình quân mỗi năm có khoảng 20.000 ha đất được rà phá. Với tiến độ này, khoảng 300 năm nữa mới có thể loại bỏ được hết các loại bom mìn chưa nổ.

Bom mìn còn sót lại sau cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề về sinh mạng, tài sản, đời sống của người dân, ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Bom mìn đã cướp đi mạng sống của 10.529 người, làm 12.231 người bị thương, trong đó 25% các thương tích này là ở trẻ em lứa tuổi từ 14 tuổi trở xuống. Bom mìn do quân đội Hoa Kỳ mang đến Việt Nam tàn phá còn sót lại khoảng hàng trăm ngàn tấn, rải rác trên khắp cả nước, đặc biệt các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi....
Lính Mỹ mệt mỏi chán nản nhìn xác đồng đội. Trận chiến ban ngày kết thúc, họ chờ đợi trực thăng đến di tản đồng đội của họ khỏi các ngọn đồi có rừng nhiệt đới bao phủ tại tỉnh Long Khánh.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ đã huy động hàng triệu người Mỹ, trong đó có 4.649.000 người dưới 20 tuổi, khoảng 40% các nhà khoa học vật lý, 260 trường đại học, khoảng 22.000 xí nghiệp lớn với khoảng 5,5 triệu công nhân phục vụ cuộc chiến. Hơn 6 triệu người Mỹ sinh sống và sinh hoạt trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, hậu quả là gần nửa triệu con lai Mỹ ra đời, nhiều người trong đó không biết rõ cha mình là ai, nhiều người phải sống trong các cô nhi viện cả trong và sau cuộc chiến.

Riêng năm 1968, mỗi ngày Mỹ chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lên đến khoảng 100 triệu USD, gấp 10 lần chi phí cho cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ trong thời gian đó. Riêng những hậu quả về con người: Tính từ giữa năm 1961 đến năm 1974, đã có tổng số 57.259 người Mỹ đã tử trận ở Việt Nam. Nếu tính theo toàn bộ thời gian cuộc chiến, từ năm 1954 đến 1975 thì có tổng số 58.168 người Mỹ đã chết ở Việt Nam. Tháng 11 năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ đã khánh thành Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam để tưởng niệm những công dân Mỹ đã chết ở Việt Nam, bản danh sách ban đầu gồm 57.939 người, trong đó có 37 cấp tướng.

Tuy bị tổn thương nặng nề, Việt Nam vẫn giáng trả vào quân xâm lược những thiệt hại, thương vong tột cùng, gieo rắc vào đầu họ những hội chứng, ám ảnh không thể nào quên, trở thành những vết thương không bao giờ lành. Số lượng quân nhân Mỹ bị mắc bệnh tâm thần trong và sau thời gian chiến đấu ở Việt Nam là nhiều nhất trong tất cả các cuộc chiến mà quân đội nước này tham gia trong lịch sử.
Một người Mỹ đau khổ trước Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ.

Lần đầu tiên, vào năm 1988, chính phủ Mỹ buộc phải thừa nhận có khoảng 15% trong số lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam trở về bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Cựu binh Jim Doyle và David Curry chỉ là 2 trong số gần 60 vạn quân Mỹ bị chính phủ họ đẩy vào vũng lầy Việt Nam. Jim Doyle đã bị đẩy tới chiến trường Việt Nam khi mới 18 tuổi, mặc dù may mắn sống sót trở về, nhưng đến giờ người cựu binh này vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh: "Chiến tranh là địa ngục. Nó tác động ghê gớm đến con người như một vết thương không thể hàn gắn.""Cuối cùng, tôi nhận ra rằng, chiến tranh không chỉ lấy cắp thời thanh niên của tôi mà còn đeo đuổi, ám ảnh suốt cuộc đời tôi". Các nhà xã hội học Mỹ cũng xác nhận: Kể từ sau năm 1975 đến nay, năm nào cũng có những cựu binh Mỹ đã từng chiến đấu ở Việt Nam bị tinh thần bất ổn, trầm cảm rồi tự sát.

IV.B. Chiến tranh tâm lý của Mỹ ở Việt Nam


Hoa Kỳ luôn tận dụng mọi khía cạnh, mọi vấn đề để giành phần thắng, và trong các loại hình chiến tranh mà Mỹ tiến hành luôn luôn được hỗ trợ bằng chiến tranh tâm lý (psychological warfare - viết tắt: PSYWAR). Các tác chiến tâm lý bao gồm cả những hành động mua chuộc, chiêu dụ, lôi kéo những kẻ địch bản xứ đứng về phía Mỹ hoặc hiệu quả hơn đó là gia nhập hẳn vào hàng ngũ của Mỹ, như chiến dịch Moolah mà Mỹ đã sử dụng hạn chế ở Trung Quốc và sử dụng rộng rãi ở Triều Tiên, với đối tượng chiêu dụ chủ yếu là lực lượng không quân của đối phương. Chiến dịch Moolah khi đến Việt Nam đã được nâng cấp thành chương trình Chiêu Hồi (Open Arms), tấn công tâm lý vào mọi đối tượng của đối phương.
Thiếu tá Alan Byrne (trái) và trung tá Robert Laabs (phải), tham mưu trưởng Trung tâm Phát triển Chiến tranh tâm lý (PSYOP Development Center), Đoàn hành động Chiến tranh tâm lý 4 (4th PSYOP Group) ở Việt Nam năm 1968

Hình bìa sách giáo khoa hướng dẫn chiến tranh tâm lý do chính phủ Mỹ xuất bản năm 1968 trong Chiến tranh Việt Nam, có tên là MACV PSYOP Guide (Kim chỉ nam Chiến dịch Chiến tranh tâm lý - PSYOP). Lưu ý trong hình có hai người Việt trong nhà hàng đang đọc truyền đơn Chiêu Hồi.


Một trang trong kim chỉ nam chiến tranh tâm lý Chieu Hoi - The Winning Ticket (Chiêu Hồi - Tấm Vé Giành Chiến Thắng) do chính phủ Mỹ ấn hành năm 1970. Dịch: Một người bắt đầu nghĩ nếu được cho một cơ hội, anh ta có thể từ bỏ tranh đấu. Nhiều người quả thật từ bỏ tranh đấu, nếu họ có cơ hội.
Truyền đơn hù dọa của Mỹ. Dòng chữ ghi: Không có nơi nào để chạy.... không có nơi nào để trốn! Tăng và thiết giáp của lữ đoàn 1 Thiết Kỵ sẽ "tìm và diệt" các người! Đã quá muộn để chống cự. Việt Cộng hãy coi chừng, nơi nào cũng có chúng tôi! Bây giờ hãy quy thuận chương trình Chiêu Hồi; đó là con đường sống duy nhất của các người.

Hệ thống chiến tranh tâm lý của Hoa Kỳ được chia làm 3 phần: Chiến lược tâm lý, chiến dịch thông tin, và chiến thuật tâm lý. Mỗi sản phẩm thông điệp của chiến tranh tâm lý Hoa Kỳ đều được "chế tạo" thành và phổ biến rộng rãi ra một cách chuyên nghiệp.

Có 3 loại hình tuyên truyền mà Mỹ dùng để tạo nên các sản phẩm thông điệp, bao gồm tuyên truyền "Trắng" là một hình thức tuyên truyền công khai, chính thống, chính thức, tuyên truyền "Đen" và tuyên truyền "Xám" là hình thái tuyên truyền ngụy trang, che đậy, mờ ám, tiêu cực. Trắng, xám, đen không phải là sự phân loại về nội dung tuyên truyền, mà là sự phân loại về biện pháp, phương thức được sử dụng để thực hiện chiến dịch chuyển tải, phát tán những sản phẩm thông tin đó.

Chiến tranh tâm lý "Trắng" là loại hình tuyên truyền bằng những công bố, tuyên bố, hoặc động thái chính thức của chính phủ Mỹ, hoặc từ những thông tin được cung cấp bởi những nguồn có liên quan đến chính phủ Mỹ, cũng như những báo chí, truyền thông chính thống (mainstream media) tại Mỹ. Nó công khai cho thấy nó là thông tin từ phía Mỹ, từ chính quyền Mỹ.

Những cơ quan phụ trách tuyên truyền "Trắng" nhắm vào đối tượng độc giả, khán thính giả nước ngoài bao gồm: Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Sở Thông tin Hoa Kỳ (United States Information Agency - USIA), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for International Development - USAID), Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, và nhiều sở, bộ khác của chính phủ Hoa Kỳ.

Chiến tranh tâm lý "Xám", là loại hình tuyên truyền bằng những nguồn tin mờ mịt, mơ hồ, không rõ ràng. Nguồn gốc thật (chính phủ Mỹ) không được tiết lộ tới những đối tượng độc giả, khán thính giả. Những nguồn tin được ngụy tạo như là một nguồn tin phi chính thống không phải từ chính phủ Mỹ, hoặc "trung lập" giả tạo, hoặc ngụy tạo là những nguồn từ phía thứ ba không thù địch với đối tượng mà chính phủ Mỹ muốn bôi nhọ.

Chiến tranh tâm lý Xám cũng có thể là những nguồn tin tuyên truyền cho góc nhìn, quan điểm của Hoa Kỳ, phục vụ cho lợi ích của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, có hại cho đối tượng mà Hoa Kỳ muốn bôi nhọ, mà không trực tiếp từ Hoa Kỳ, có thể từ những quốc gia "vệ tinh" của Mỹ, những quốc gia lệ thuộc Mỹ, những đồng minh lâu năm của Mỹ v.v. mà có bàn tay của Mỹ của trong đó. Có nhiều trường hợp những tác động, tham gia của phía Mỹ cũng không được tiết lộ.

Chiến tranh tâm lý "Đen", là loại hình tuyên truyền từ những nguồn (quốc gia, chính phủ, đảng phái, phe nhóm, tổ chức, cá nhân v.v.) có thái độ thù địch với cộng đồng quốc tế nói chung. Lợi dụng hoặc là ngụy tạo những nguồn đó. Lợi ích của chính phủ Mỹ được khéo giấu đi và chính phủ Mỹ nếu cần sẽ bác bỏ trách nhiệm. Loại hình tâm lý chiến này thích hợp cho những kế hoạch chiến lược cao.

Để đạt được hiệu quả cao nhất 2 loại hình chiến thuật chiến tranh tâm lý overt (công khai) và covert (giấu kín) đều phải được chia cách ra làm 2 tổ riêng rẽ, biệt lập với nhau. Nhân viên tham gia chiến thuật overt không thể tham gia chiến thuật covert, và ngược lại. Họ không biết được nhiệm vụ của nhau.
Tấm hình của lính Mỹ Paul Sgroi chụp chuyên viên tâm lý chiến John C. Stermer đang rải truyền đơn từ trực thăng UH-1H (Huey) vào năm 1969.
Truyền đơn được rải xuống từ máy bay U-10

Đội phát loa chiến tranh tâm lý Mỹ-ngụy trên chiến trường Việt Nam


Ngay từ đầu thập niên 1950, khi Mỹ chỉ mới đứng sau và viện trợ cho Pháp xâm lược Đông Dương, chứ họ chưa tiến hành chiến tranh với Việt Nam, thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu trước, đề phòng trước, và đã cẩn thận cảnh báo về chiến tranh tâm lý của Mỹ và kêu gọi quân dân Việt Nam phải đề cao cảnh giác trước tâm lý chiến của Hoa Kỳ.

Trong thời gian đó Bác Hồ đã viết nhiều bài báo, phân tích, bình luận về các thủ đoạn và hình thức tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền dối trá của Mỹ, trong đó có 2 bài viết ấn tượng đó là bài "Tuyên truyền" do Bác Hồ viết ngày 25-5-1954 trên báo Nhân dân số 188 và bài "Chiến tranh nhồi sọ" do Bác viết ngày 25-7-1952 trên báo Cứu quốc số 2128.

Trong bài "Tuyên truyền", Bác viết: "Nói tóm lại, chúng dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền, để hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta; cũng như chúng dùng bom đạn để phá hoại mùa màng và giao thông của ta." Cuối bài Người nhấn mạnh ý chính: "Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự!"

Trong bài "Chiến tranh nhồi sọ", Người viết: "Ở các nước, có hơn 400 cơ quan làm việc tuyên truyền cho Mỹ... Mỹ còn lập nhà thương, trường học, hội từ thiện, vân vân, ở các nước, để làm cơ quan tuyên truyền và ổ mật thám. Hiện nay, tại những vùng tạm bị (Pháp) chiếm ở nước ta, Mỹ đang ra sức xâm lược vǎn hoá để hủ hoá và gieo rắc bệnh phục Mỹ, thân Mỹ, sợ Mỹ vào nhân dân, nhất là vào thanh niên ở những vùng ấy. Đó là một điều mà cán bộ giáo dục và tuyên truyền ta phải đặc biệt chú ý và phải ra sức chống lại."
Hình bìa truyện tranh "Is this tomorrow, America under communism" (Phải chăng đây là ngày mai, Hoa Kỳ dưới chủ nghĩa cộng sản).

Rất nhiều sách, truyện tâm lý chiến đã được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1967, 20 trang sách in màu, mật mã 2078, dưới tựa đề "Qua Cơn Ác Mộng" (The Chieu Hoi Story) được phát hành, truyện trình bày theo phong cách truyện tranh, hư cấu "nỗi niềm" của một "hồi chánh viên", những "trải nghiệm ác mộng" dưới chế độ cộng sản ở vùng giải phóng và và lý do vì sao anh ta phải thoát ly cách mạng.
Tháng 10/1967, 20 trang sách với 12 hình chụp với tựa đề "Nhật ký của người Hồi Chánh" (Diary of a Returnee), mật mã 2169, được phát hành, truyện hư cấu theo hướng nội dung kể trên. Sách này còn liệt kê danh sách những chế độ đãi ngộ, tiền thưởng để chiêu dụ.

Năm 1955, Mỹ đài thọ cho chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập Nha Chiến tranh Tâm lý, người Mỹ chịu mọi chi phí. Năm 1965, cơ quan này đổi tên thành Cục Tâm lý chiến và sát nhập vào Tổng cục chiến tranh chính trị.

Hoạt động của Nha Chiến tranh Tâm lý trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam chủ yếu là tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền chống cộng, bôi nhọ những người chống Mỹ, vu khống các nhà lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bịa đặt hoặc xuyên tạc tình hình ngoài Bắc, "chụp nón cối" những nhóm đối lập với Mỹ-ngụy, nhất là trong giới tôn giáo, Phật giáo....

Các hoạt động này chủ yếu được thực hiện bằng những buổi truyền thanh (ví dụ: chương trình Dạ Lan, Nhạc Thời Chinh Chiến, Tiếng Ca Gửi Người Tiền Tuyến), truyền hình (ví dụ: chương trình Thép Súng), xuất bản (ví dụ: báo Chánh Đạo, báo Tiền Tuyến), chiếu phim (ví dụ: phim Chúng Tôi Muốn Sống do người Mỹ dàn dựng và sản xuất), văn nghệ (ví dụ: Biệt đoàn văn nghệ trung ương) .... Hai công cụ chính là Đài Phát thanh Quân đội và báo Chánh Đạo.
Áo tâm lý chiến. Trên áo là logo của chương trình Chiêu Hồi.
Những du kích phản bội nhận tiền thưởng sau khi dẫn binh lính Mỹ-ngụy tới kho vũ khí bí mật.


Hoạt động của nó trong những vùng giải phóng ở miền Nam và miền Bắc chủ yếu là kích động bất ổn, xúi giục, tung tin thất thiệt, tuyên truyền chống CNXH và CNCS, bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, vu khống các nhà lãnh đạo của VNDCCH, bịa đặt hoặc bóp méo tình hình trong Nam, kêu gọi lật đổ chế độ, ca ngợi Mỹ-ngụy, tuyên truyền không trung thực về tình hình xã hội miền Nam, ca ngợi giả dối về hình ảnh một "Hòn ngọc Viễn Đông" "giàu mạnh", "phồn vinh", "thịnh vượng", tuyên truyền về các khái niệm "tự do", "dân chủ", "nhân quyền" theo định nghĩa và định hướng của Hoa Kỳ....

Các hoạt động này của nó chủ yếu bằng đài phát thanh "Tiếng nói Tự do", "Mẹ Việt Nam", "Gươm thiêng Ái quốc" (1965), "Tiếng nói Nam Bộ", "Tiếng nói Khmer" và "Mặt trận Dân tộc Đông Dương". Riêng 2 đài sau hoạt động chủ yếu nhằm gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia.
Hình tuyên truyền cho kế hoạch Ấp tân sinh (Ấp đời mới), sau khi kế hoạch Ấp chiến lược bị thất bại và phá sản.

Các cơ quan chiến tranh tâm lý của Mỹ-ngụy hoạt động theo phong cách phát xít chống cộng kiểu Đức Quốc Xã, như Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Hitler đã tuyên bố đại ý: Sự thật là những gì không đúng sự thật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng lặp đi lặp lại mãi thì dân sẽ tin đó là sự thật.

Tuy nhiên kết quả cuộc chiến Việt - Mỹ và kết quả hạn chế của các hành động chống Nhà nước Việt Nam, lặp đi lặp lại những lời lẽ vu khống của các thế lực phản động từ sau cuộc chiến đến nay đã cho thấy rằng lý thuyết, quan điểm, cách làm này của Đức Quốc Xã và Mỹ-ngụy là không có nhiều hiệu quả.
Bích chương tuyên truyền chống cộng của phát xít Đức
Bích chương tuyên truyền của Đức Quốc Xã năm 1918, vẽ hình một người thuộc giai cấp vô sản đang chuẩn bị ném quả bom vào một thiên thần da trắng tóc vàng, được cho là ám chỉ chủng tộc "thượng đẳng" Aryan. Dòng chữ ghi: Bolshevik mang đến chiến tranh, thất nghiệp và đói khổ.


Các cơ quan liên quan đến ngành tâm lý chiến bao gồm:

Cục chính huấn, công tác chính của nó là tẩy não và nhồi sọ những thanh niên bị bắt lính. Cơ quan này đã sáng tác nhiều bài hát quân đội (ví dụ: "Hàng ngàn cánh tay đưa lên", "Giặc từ miền Bắc vô đây"), bắt chước thể loại nhạc hùng ca của Việt Minh, để "lên dây cót" tâm lý, kích động tinh thần quân lính và đưa họ ra chiến trường chiến đấu cho chính phủ Mỹ, đánh thay và đỡ đạn cho quân đội viễn chinh Mỹ.

Cục xã hội và Cục quân tiếp vụ, các chuyên viên và các nha tuyên úy lo việc "ru ngủ" các tầng lớp xã hội, bao gồm cả tôn giáo. Cung cấp đô la hoặc hàng hóa như thuốc lá, bơ, sữa cho binh lính và gia đình ở giá thấp hơn giá thị trường. Mở các hoạt động ngụy tạo từ thiện, bố thí tiền bạc và vật chất để quảng cáo, tiếp thị, quảng bá hình ảnh Diệm-Thiệu và "người bạn lớn Hoa Kỳ".

Trường Đại học Chiến tranh Chính trị: Đào tạo các kỹ năng tẩy não, nhồi sọ của chiến tranh tâm lý kiểu Mỹ. Tổ chức hội luận, nghiên cứu kỹ thuật tẩy não, nhồi sọ các thanh niên miền Nam bị bắt lính, và chương trình tẩy não, nhồi sọ trong các quân trường. Thành lập từ năm 1956 dưới tên Trường Quân báo Tâm lý chiến Cây Mai. Năm 1964 đổi tên thành Trường Chiến tranh Chính trị. Năm 1966 đổi tên thành Trường Đại học Chiến tranh Chính trị và dời lên Đà Lạt. Trường đào tạo được 6 khóa sĩ quan rồi bị giải tán sau ngày 30/4/1975.

Truyền đơn ngày 4/20/1968
Truyền đơn SP-782
Truyền đơn 2310

IV.B-1. Tố Cộng


Trong chiến dịch Tố Cộng, ngoài những đàn áp bạo lực, bỏ tù, lưu đày, ám sát, chặt đầu để tiêu diệt người cộng sản, Mỹ-Diệm cũng thực hiện chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn để mị dân trong một số khu vực. Tuy nhiên, chính những đồng bào không nằm trong hàng ngũ kháng chiến đã góp công rất lớn vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh tâm lý.

Tại Quảng Trị, ngụy quyền chuẩn bị một bản danh sách "tội ác cộng sản" rồi bắt ông Lê Chí Khiêm trong ban trị sự hội Phật học lên đọc. Trước khi đọc ông nói: "Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây là tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe".

Hình tượng hơn là chuyện ở Phan Rí (Bình Thuận). Khi một quận trưởng muốn mị dân, cho tổ chức một cuộc tranh luận giữa ông ta với người dân địa phương về những cái tốt và cái xấu giữa phía kháng chiến và phía Mỹ-Diệm, ông Bộ Gạch người dân tộc Chăm đã đứng lên nói một điều không nằm trong các giáo trình tâm lý chiến mà người quận trưởng đã chuẩn bị từ trước: "Các ông có chín cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có chín cái xấu và một cái tốt. Các ông cái gì cũng tốt nhưng ở với dân xấu quá. Cộng sản cái gì cũng xấu nhưng ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo cộng sản và cuối cùng cộng sản vẫn thắng."

Trong một đêm Tố Cộng ở Chợ Lớn, một ông cụ đã nói: "Việt Cộng có nhiều cái xấu: Súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu, chỉ có cái tốt là trong kháng chiến hồi đánh Tây đã sống chết để bảo vệ dân. Các ông thì có nhiều cái tốt: Súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là giật của dân thôi".

Người dân còn đặt nhiều câu hỏi làm cho những kẻ chỉ đạo các cuộc Tố Cộng ấp úng khó trả lời như: "Các ông nói cộng sản độc tài, nhưng chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì trong kháng chiến cộng sản kêu gọi đánh Tây giành độc lập mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm.", "Các ông nói cộng sản 'cướp công kháng chiến', nhưng lúc đánh Tây, các ông ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?", "Nói quốc gia kháng chiến sao lại đi làm cho Tây?".

Những câu hỏi đúng sự thật như vậy làm cho ban tổ chức thường xuyên bị bí không trả lời được. Nhiều lần họ phải giải tán lớp học. Một người chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng cấp trung ương ngụy quyền đã phải nói: "Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không trả lời được".

IV.B-2. "Thảm sát ở Huế"


Ngoài chiến dịch chiến tranh tâm lý rộng lớn kể trên của Mỹ-Diệm, sau này Mỹ-Thiệu cũng thực hiện một chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn sau trận đánh 25 ngày ở Huế trong sự kiện xuân Mậu Thân 1968.

Sau trận chiến 25 ngày, Mỹ-ngụy trong một sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều cư dân Huế gọi là sự kiện "Hậu Mậu Thân" đã lùng sục trả thù, giết hại. Người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã tẩy trắng Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù quy mô lớn.

Một nhân chứng ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa khi trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne-2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã cho biết: "Bắt đầu là chúng nó (Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ tàn sát trả thù, những thi thể chiến binh Giải phóng và lính ngụy, cũng như những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi quay phim và chụp hình tuyên truyền giả dối đó là "nạn nhân thảm sát của Việt Cộng", thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành "hành quyết", "chôn sống", con số thì có những bài báo phóng đại lên đến "hàng triệu".

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-ngụy phong tỏa khu vực, ngăn cấm tất cả phóng viên nào muốn vào Huế kiểm chứng các "hố chôn tập thể". Sau khi đã dàn dựng xong, họ mới cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào đưa tin, làm phóng sự về "tội ác Việt Cộng", rồi sau đó mới hoàn toàn cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Nhà văn Trần Thị Thu Vân (Nhã Ca) sau đó được chỉ đạo viết tiểu thuyết "Giải khăn sô cho Huế" theo phong cách tự truyện, một dạng "hồi ký ma" được hư cấu từ trí tưởng tượng phong phú của một nhà văn tâm lý chiến chuyên nghiệp lĩnh lương Mỹ để tuyên truyền bôi nhọ lực lượng kháng chiến.

Chiến dịch chiến tranh tâm lý này tuy đã thành công lừa gạt được một bộ nhận nhỏ, nhưng không lừa dối được nhiều người Việt Nam và người dân thế giới, bởi vì:

  • Chỉ nói suông, không bằng chứng, không có hình chụp, thước phim nào có những người lính Giải phóng trong đó. Trong tất cả các hình ảnh về tội ác chiến tranh ở Việt Nam thì những bức ảnh lính Mỹ-ngụy gây tội ác nào mà có lính Mỹ-ngụy trong đó thì được công nhận là tội ác Mỹ-ngụy. Còn những bức ảnh không có lính Mỹ-ngụy trong đó thì bị các cơ quan tâm lý chiến tuyên truyền thành "tội ác cộng sản". Tất cả các bức ảnh được giới tâm lý chiến Sài Gòn và các thế lực chống cộng tuyên truyền xưa nay đều không có bất kỳ 1 hình nào có người lính Giải phóng trong đó, chỉ thấy nạn nhân cùng những lời bình chụp mũ, gán tội vô căn cứ, không bằng không chứng và giấu đi ai là kẻ thủ ác thật sự.
  • Không hợp thường lý và không có tiền lệ. Quân Giải phóng sống trong dân, sống nhờ vào dân, được dân nuôi giấu, che chở, thảm sát dân chính là tự sát, là tự tuyệt đường sống của quân mình.
  • Trái ngược với luật pháp Việt Nam, các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước, hay các tuyên thệ, quân luật, cách làm, các hành động lâu nay của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến lược của Việt Nam là chiến tranh nhân dân, với phương châm "quân với dân như cá với nước". Mỹ-ngụy đã phải xây các trại tập trung như Ấp chiến lược để gom dân, dồn dân vào đó để tách dân ra khỏi quân, "tát nước bắt cá". Các chỉ thị từ trên xuống quân đội thường xuyên nhấn mạnh "phải dựa vào dân". Vì vậy những hành động gây tai tiếng, làm xấu hình ảnh trước nhân dân và dư luận quốc tế là không hợp lý. Thực tế trước và sau chiến dịch Mậu Thân thì sự ủng hộ của người dân đối với cách mạng vẫn vậy không lay chuyển.
  • Không phù hợp với các bằng chứng hay những lời kể từ các nhân chứng ở hiện trường, cũng như không được nhiều người trên thế giới tin tưởng, đề tài này không được các học giả xem là một đề tài nghiêm túc để đưa vào các tác phẩm, công trình nghiên cứu của họ. Nói chung thông tin này không phù hợp với các nguồn tin, sách báo, tài liệu quốc tế.
  • Xưa nay có nhiều phóng viên chiến trường như David Duncan, Robert Shaplen, nhà báo, nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud, nhân viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Townsend Hoopes và các nhà nghiên cứu độc lập như tiến sĩ Noam Chomsky, nhà kinh tế học Edward Herman, giáo sư tiến sĩ Gerath Porter, tiến sĩ Alje Vennema, sử gia Stanley Karnow, cựu phóng viên Bưu báo Washington (Washington Post) Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman v.v. đều đã góp phần vạch trần chiến dịch thông tin bôi nhọ này của Mỹ-ngụy.
Cựu chiến binh người Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường, là nhân chứng trong mặt trận Huế năm Mậu Thân 1968, trả lời phỏng vấn về "cuộc thảm sát" này.
Truyền đơn dùng tiền bạc và lợi ích vật chất để chiêu dụ quân Giải phóng.
Truyền đơn 2990 - mặt sau. Chức vụ càng lớn, tiền thưởng càng nhiều.
Truyền đơn 7-377-68


Truyền đơn 7-617-68


Truyền đơn JUSPAO số 2500. Lưu ý các số tiền in trên truyền đơn là theo vật giá thời đó, nếu tính theo giá ngày nay thì đó là những số tiền lớn hơn.

IV.C. Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận

Chiến tranh tâm lý của chính phủ Mỹ thường đi kèm với các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ để khủng bố tâm lý đối thủ, và đe dọa, gieo rắc sợ hãi cho nhân dân bản xứ, để họ không còn dám tiếp tế, giúp đỡ, nuôi giấu lực lượng kháng chiến bản địa.

Để tạo điều kiện dễ dàng, thuận tiện, tự do nhất cho sự hoạt động quân sự của binh sĩ Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã tự đặt ra luật Free-fire-zone (vùng bắn phá tự do) trên đất Việt Nam. Theo Dictionary of the Vietnam War (Tự điển thuật ngữ về Chiến tranh Việt Nam) do cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Hoa Kỳ James S. Olson biên soạn, Greenwood Press xuất bản năm 1988, và Crimes of War: What the Public Should Know (Tội ác chiến tranh: Những gì công chúng nên biết) của nhà nghiên cứu sử học Lewis M. Simmons, do nhóm Roy Gutman xuất bản năm 1999, thì Vùng bắn phá tự do là vùng được bắn vào mục tiêu (bao gồm khu vực, người và vật) mà không cần được cho phép trước.

Tài liệu hướng dẫn chiến trường (field manual) FM 6-20 định nghĩa như sau: "Một khu vực được xác định cụ thể mà tại đó, mọi hệ thống vũ khí đều có thể bắn mà không cần chỉ thị của các sở chỉ huy".

Sở chỉ huy MACV tại Việt Nam đã dựa vào giả định rằng tất cả các lực lượng bạn đã rời khỏi khu vực, và đã thiết lập một chính sách xác định các vùng bắn phá tự do là các khu vực mà:

  • Bất cứ ai xuất hiện quanh đó đều được coi là một binh sĩ đối phương.
  • Binh lính được phép bắn bất cứ ai di động sau giờ giới nghiêm mà không cần phải chắc chắn rằng người này có thái độ thù nghịch.
Chính sách này đã vi phạm hiệp định Genève 1954, hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như những quy định liên quan đến tội ác chiến tranh và nhân quyền.

Đế quốc Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa từng có trên một địa bàn hẹp; sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại và dã man nhất; đưa số quân Mỹ vào miền Nam lên đến gần 60 vạn quân. Chính quyền Mỹ đã thực hiện mọi chiến lược, chiến thuật về chính trị, quân sự, ngoại giao, dùng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất; bao vây phong tỏa, khủng bố toàn diện, tàn phá kinh tế, triệt hạ làng xóm, nông thôn và đô thị, tiêu diệt con người, hủy diệt môi trường thiên nhiên.... Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã đưa ra các chiến lược gia, các chuyên gia chính trị - quân sự - khoa học, các tướng lĩnh bậc nhất của họ để đấu trí với Việt Nam.

Số bom đạn quân đội Mỹ dùng để tàn phá Việt Nam là 7.822.547 tấn, gần gấp 3 lần bom Mỹ dùng trong Thế chiến II, hơn gấp 10 lần chiến tranh Triều Tiên, gấp 47 lần số bom Mỹ ném xuống Nhật Bản.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Mỹ đã sử dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự mới nhất. Các vũ khí và phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất luôn được đem vào sử dụng trên chiến trường Việt Nam (trừ vũ khí hạt nhân), như máy bay B-52, máy bay F-111, các loại trinh sát cơ động cao hỏa lực mạnh, các loại phương tiện gây nhiễu và chống nhiễu, các loại bom chùm, bom bi, bom napan, chất độc hóa học....

Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa bao giờ và chưa có nơi nào trên trái đất đã diễn ra một cuộc tàn sát, hủy diệt kéo dài với quy mô rộng lớn trên một diện tích nhỏ hẹp như cuộc chiến tranh Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam. Với việc sử dụng không hạn chế bom đạn, chất độc hoá học và những vũ khí hủy diệt hàng loạt, Mỹ đã đánh vào đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiêu diệt môi trường sống của sinh vật trên đất nước Việt Nam.
Biếm họa của họa sĩ Carlos Latuff về Chiến tranh Việt Nam, tác phẩm được hoàn thành năm 2000. Dịch câu trên hình: "Chúng tôi ở đây để đem đến dân chủ, hãy đọc lại lời tôi: Dân chủ".



Những hung thủ sát nhân trong vụ thảm sát làng Sơn Mỹ chấn động thế giới thời bấy giờ, sau này trả lời phỏng vấn đài phát thanh BBC 4 thì họ (trung úy William Calley, tướng William Peers v.v.) cũng phải thú nhận họ chỉ là những kẻ thừa hành, họ nhận lệnh cấp trên để gây ra những tội ác chiến tranh đó, và tuyên bố xin lỗi các nạn nhân và nhân dân Việt Nam.

Theo bài báo My Lai: A Question of Orders (Mỹ Lai: Một câu hỏi về những quân lệnh) trên tuần báo Time, đại tá Oran Henderson đã ra lệnh phải "xóa sạch chúng". Trong tác phẩm nghiên cứu My Lai: An American Tragedy (Mỹ Lai: Bi kịch của người Mỹ) của cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, giáo sư luật học tại Đại học Missouri-Kansas City, luật sư William George Eckhardt, xuất bản năm 2000, tóm tắt lại bản báo cáo của tướng William Peers, trong đó ghi rõ chi tiết Trung tá Frank A. Barker ra lệnh cho các chỉ huy của Tiểu đoàn 1 đốt trụi làng, giết sạch con người và gà, chó, đốt sạch các kho lương thực và đầu độc các giếng nước.

Một số binh sĩ của Đại đội Charlie sau này đã khai rằng Đại úy Ernest Medina ra lệnh cho họ giết tất cả những người dân "khả nghi", bao gồm cả phụ nữ, trẻ em, người già v.v. họ đốt làng, phá hủy lương thực và đầu độc giếng nước.

Trả lời phỏng vấn BBC News Anh ngữ tháng 3 năm 2008, sĩ quan Celina Dunlop tự thú: "Đa phần lính trong đơn vị tôi không coi người Việt Nam là loài người.". Trong Thư viện Tội ác chiến tranh ở Mỹ, có tài liệu "Into the Dark: The My Lai Massacre" (Vùi sâu vào trong bóng tối: Cuộc thảm sát Mỹ Lai), trong đó có nói về một phi công trực thăng bay trên khu vực làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ) đã thốt: "Quang cảnh phía dưới trông như một biển máu! Cái quái gì đang xảy ra thế?".

Lúc đầu, Mỹ che giấu thông tin và bịa đặt ra là mình chỉ giết cộng sản, giết lính, giết Việt Cộng, bịa ra những "cuộc đọ súng ác liệt", "trận đánh đẫm máu", nhưng sau đó một số người lính tham dự đã không kín miệng, sự việc rò rỉ, báo chí và phóng viên chiến trường khắp thế giới vào cuộc, dư luận quốc tế gây sức ép quyết liệt, nên quân đội Mỹ đành phải đưa 1 kẻ thủ ác "ra tòa". Nhưng chỉ xử qua loa chiếu lệ.

Chỉ huy Lữ đoàn Henderson là Trung úy William Calley, ông ta là người duy nhất phải ra tòa án binh từ trước tới nay sau hàng trăm vụ thảm sát lớn nhỏ do quân đội Mỹ và các đồng minh, chư hầu gây ra ở Việt Nam, như các cuộc thảm sát Sơn Mỹ, Thạnh Phong, Bình Hòa, Định Tường, Kiến Hòa, Gò Công, Hà My, Thái Bình, Phong Nhi và Phong Nhất v.v..

Ban đầu Calley "ra tòa" không phải về tội giết dân thường, hay tội ra lệnh tàn sát thường dân, mà về tội “che giấu thông tin”, sau đó được tuyên bố trắng án. 10 tháng sau, do dư luận Việt Nam, Hoa Kỳ và quốc tế làm lớn, áp lực chính trị căng thẳng, Mỹ đành phải lôi Trung úy Calley ra tòa và bị tuyên án “chung thân” nhưng chỉ 2 ngày sau đó Tổng thống Nixon đã ra lệnh thả Calley. Cuối cùng Calley chỉ phải chịu án 4 tháng ngồi tù quân sự tại bang Kansas. Theo tài liệu “War Crimes: Brutality, Genocide, Terror, and the Struggle for Justice” (“Tội ác chiến tranh: Khủng khiếp, Diệt chủng, Khủng bố, và sự tranh đấu vì công lý”) của tác giả Neier, NXB Random House, trong thời gian này hắn vẫn được bạn gái thăm nuôi và quan hệ tình dục không hạn chế trong nhà giam, được cung cấp thực phẩm đặc sản, nước giải khát, và bao cao su. Dư luận Mỹ và thế giới thì chỉ xem hắn là con Tốt thí, là con dê tế thần, là kẻ giơ đầu chịu báng.

Theo ghi âm radio của nhà báo quân đội Mỹ Robert Hodierne, một cựu binh Chiến tranh Việt Nam, người dẫn chương trình đài phát thanh BBC 4 Anh ngữ khi phỏng vấn một loạt những cựu binh Mỹ từng tham gia vụ tàn sát, hãm hiếp, tắm máu ở Sơn Mỹ đã kết luận: “Những vụ thảm sát này không chỉ đơn thuần là những hành vi của nhóm lính bất trị gây ra. Nó là những cuộc bắn giết được lên kế hoạch cẩn thận từ trước, với mục tiêu giết càng nhiều càng tốt, hủy diệt càng nhiều càng tốt”.

Trong các tài liệu, hồ sơ của quân đội Mỹ, Lữ đoàn 173, có báo cáo chi tiết về 142 vụ bắt giữ và ngược đãi người dân, trong đó có 127 trường hợp liên quan đến Lữ đoàn này. Tuy nhiên các giới chức lãnh đạo của Hoa Kỳ đã cố gắng bưng bít thông tin. Tờ Los Angeles Times đã đăng bài viết tố cáo các chỉ huy quân đội Mỹ đã che giấu tội ác của cấp dưới trong chiến tranh ở Việt Nam và phần lớn các quân nhân phạm tội đã không bị trừng phạt, hoặc chỉ bị phạt rất nhẹ, trong khi người tố cáo lại bị trả thù, ngược đãi, trù dập.

Một số thông tin khác liên quan đến tội ác quân đội Hoa Kỳ khi giải mật hồ sơ những vụ thảm sát tại Việt Nam, theo báo Los Angeles Times, Baltimore Sun ở Mỹ, Cơ quan Lưu trữ Hồ sơ và Tài liệu Quốc gia (NARA) của Hoa Kỳ đã có hơn 9.000 trang tư liệu, hồ sơ cung cấp chi tiết về 320 cuộc thảm sát lớn nhỏ đã được cơ quan điều tra của quân đội Mỹ xác minh và có những bằng chứng cụ thể. Nhưng trong 320 cuộc thảm sát này lại không có Thảm sát làng Sơn Mỹ, cuộc thảm sát ghê rợn và chấn động quốc tế, cho thấy còn rất nhiều tội ác thảm sát, trong đó có những vụ thảm sát tương đương mức độ như thảm sát Sơn Mỹ của quân đội Mỹ tại VN mà chưa được ghi nhận đầy đủ, những hồ sơ còn nhiều thiếu sót, còn nhiều cuộc thảm sát không được đưa vào hồ sơ, hoặc bị che giấu bưng bít thành công.

Các vụ việc còn lưu giữ trong hồ sơ NARA có thể kể đến: Bảy vụ thảm sát lớn từ 1967 đến 1971, mỗi vụ có ít nhất 137 người dân bị giết, 78 vụ thảm sát khác vào những người dân thường, mỗi vụ có ít nhất 57 người bị giết và 56 người bị gây thương tật, 15 vụ hãm hiếp hàng loạt, hiếp trước giết sau, 141 vụ tra tấn vô nhân đạo vào thường dân hoặc tù binh chiến tranh.

Ngoài 320 trận thảm sát được xác minh, hồ sơ còn có những tài liệu có liên quan đến hơn 500 hành động tàn ác mà các điều tra viên chưa thể chứng minh hoặc không được quan tâm đến.
Nhiều người đã điều trần trước Quốc hội Mỹ nói lên các lý do vì sao phải kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Ông John Kerry là một trong những người đó.


Trung úy John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng Ngoại giao) đã làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện Mỹ năm 1971 như sau:

“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn), bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.
Một người lính Dù đốt nhà dân chỉ khoảng 20 cây số phía tây Sài Gòn (4/1/1966), trong một chiến dịch "tiêu thổ" mà Mỹ-ngụy hay áp dụng.



Những gì mà nhiều nhân chứng sống, trong đó có các nạn nhân của Mỹ, các phóng viên chiến trường ngoại quốc, những hung thủ lính Mỹ kể lại v.v. đều phù hợp với những gì Bác Hồ và cả những cựu chiến binh Nam Bộ nói về tội ác của giặc Mỹ ở nhiều khu vực dân cư miền Nam Việt Nam: "Chúng dùng chính sách 3 sạch: Giết sạch, phá sạch, đốt sạch."

Sách "Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược" do Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh và Nhà xuất bản Trẻ ấn hành vào năm 2003, sưu tầm và ghi lại lời chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu mạnh mẽ với ký giả quốc tế như sau:

"Vì Mỹ đất nước chúng tôi bị chia cắt làm đôi, đồng bào miền Nam chúng tôi đang lâm vào tình cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam có những tòa án phát xít, những luật lệ bạo ngược, những máy chém lưu động giết người khắp thành thị và thôn quê, có những trại giam khổng lồ, giam cầm và tra tấn hàng chục vạn người, giết chết hàng vạn người yêu hòa bình và yêu Tổ quốc. Vì Mỹ mà có những sư đoàn, binh lính với máy bay, xe tăng và đại pháo Mỹ đi càn quét liên miên, giết hại thường dân, đốt phá làng mạc. Nói tóm lại vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian".
Pháp trường giữa trung tâm Sài Gòn, nơi xảy ra những vụ hành quyết công khai trước sự chứng kiến của công chúng, nhằm mục đích đe dọa.
Tháp Mười Tầng giữa trung tâm Đồng Tháp Mười, được Mỹ-Diệm sử dụng làm đài quan sát, giám sát người dân Đồng Tháp.

Trước đây, năm 2005, nhà sử học, nhà báo Nick Turse đã hoàn thành quyển sách Kill Anything That Moves: U.S. War Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Tội ác chiến tranh tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam, 1965-1973), Đại học Columbia xuất bản. Sách được đánh giá cao trên văn đàn một thời. Sách đã đoạt giải thưởng Ridenhour của National Press Club vào năm 2009

Lần này, sách Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Cuộc chiến thật sự của Mỹ ở Việt Nam) của cùng một tác giả, do Metropolitan Books mới xuất bản ngày 15 tháng 1, 2013, đã một lần nữa, đưa ra những hình ảnh chân thật đến trần trụi của quân đội Mỹ đối với người dân và đất nước Việt Nam. Tác phẩm này là một công trình phát triển từ quyển sách của tác giả năm 2005.

Trong tác phẩm mới, ông Nick Turse đã trích dẫn những hồ sơ của chính phủ Mỹ và Lầu Năm Góc cho thấy trong cuộc chiến ở Việt Nam, chính phủ Mỹ đã thi hành cuộc tàn phá hàng loạt vào con người và tài sản một cách có hệ thống trong suốt cuộc chiến.

Tiếp theo một số bài báo trước đây của Nick Turse, cuốn sách đưa ra những tư liệu cho thấy, những vụ hiếp dâm hàng loạt, tra tấn, xẻo thịt dân thường Việt Nam, trong đó có vụ thảm sát làng Mỹ Lai năm 1968 khiến hơn 500 dân thường bị giết, không phải là những hành động lầm lạc trong những giờ phút thiếu suy nghĩ, mà là chính sách cố sát và khủng bố có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của Mỹ. Các cuộc thảm sát tương tự vụ ở làng Mỹ Lai không phải sự cố bất thường, mà là một trong các "chiến dịch" thực hiện thường xuyên theo chính sách của Mỹ.

Theo tài liệu mà Turse có được, Mỹ Lai là một chiến dịch, không phải sự lầm lạc. Không chỉ nghiên cứu qua hồ sơ, tài liệu, Turse còn phỏng vấn rất nhiều tướng lĩnh và quan chức dân sự cao cấp, các nhà điều tra tội phạm, cựu chiến binh từng chứng kiến hoặc phạm tội ác. Turse cũng đã đến Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn những người sống sót từ các cuộc thảm sát đó.

Quyển sách ngay từ chương 1 đã tường thuật từ thời kỳ quân đội Mỹ được huấn luyện ở các quân trường tại Mỹ (Fort Benning, Camp Lejeune, bang Georgia v.v.) thì tinh thần kỳ thị chủng tộc (như của tướng Douglas MacArthur) đã được nhồi nhét tối đa để giúp người tân binh Mỹ có thể giết kẻ thù - người Việt Nam - mà không hối tiếc hay ân hận. Cựu chiến binh Wayne Smith khi trả lời phỏng vấn của tác giả, đã kể lại rằng các huấn luyện viên quân đội không bao giờ gọi người Việt Nam là "Vietnamese", thay vào đó là những chữ tiếng lóng hạ cấp như "dinks", "gooks", "slopes", "slants", những từ ngữ không còn mang ý nghĩa tượng trưng cho con người văn minh, hay thậm chí là những con người bình thường, mà là những ngôn từ miệt thị, lăng mạ, hàm ý khinh khi người Việt như một giống dân hạ đẳng, "man di mọi rợ".

Trong vụ thảm sát Triệu Ái, khi trung úy Maynard quăng lựu đạn xuống hầm một căn nhà trong làng Triệu Ái, trung úy Bailey cho biết có con nít trong hầm ấy. Nhưng trung úy Maynard trả lời: "Kệ mẹ nó, rồi tụi đó lớn lên thì cũng trở thành Việt Cộng thôi."

Tiếp theo một số tác phẩm trước đây của ông Nick Turse, cuốn Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam đã đưa ra những hồ sơ, tư liệu, dữ liệu cho thấy những vụ hủy diệt hàng loạt, dâm sát, tra tấn, cắt xẻo bộ phận cơ thể đối với các đối tượng dân thường Việt Nam từ nam đến nữ, từ bé đến già, từ cộng sản đến không cộng sản v.v. nhiều vụ không phải hành động lầm lạc trong những giây phút thiếu suy nghĩ, mà là chính sách có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của Mỹ thời đó. Cuộc thảm sát làng Mỹ Lai và nhiều cuộc thảm sát khác không phải là sự cố bất thường, mà là chiến dịch quân sự thực hiện theo chính sách quân sự Mỹ, nhằm khủng bố tinh thần và xóa trắng các pinkville (làng hồng), là những làng xã mà họ nghi ngờ là có giúp đỡ, tiếp tế cho quân kháng chiến. Khủng bố để răn đe "làm gương", gieo rắc sợ hãi để người dân và các làng bên lấy đó "làm gương", không còn dám nuôi giấu những người chống Mỹ.

Sau bao nhiêu phỏng vấn và tìm hiểu, ông đã cho biết: "Hàng trăm báo cáo mà tôi tập hợp được cùng với hàng trăm nhân chứng tôi từng phỏng vấn ở Mỹ và Đông Nam Á cho thấy một điều rõ ràng rằng, việc giết hại dân thường - dù một cách máu lạnh như ở Mỹ Lai hay một cách bàng quan vô cảm như ở Bình Long - đều rất phổ biến, diễn ra thường xuyên, và xuất phát từ chính sách chỉ huy của Mỹ".

Đây là những lời bình tiêu biểu về quyển sách còn rất mới này của nhà báo kiêm sử gia Nick Turse, qua những lời bình của các nhà phê bình của Mỹ càng cho thấy rõ hơn các tội ác cố sát có hệ thống, theo chính sách của chính phủ Mỹ, gây ra bởi quân đội Mỹ ở Việt Nam.

Nhà báo Steve Weinberg bình luận trên báo Star Tribune:

Trong cuốn sách mới, “Giết mọi thứ di động” (Mới Xuất Bản Ngày 15-1-2013, Metropolitan Books), ký giả Nick Turse đã chứng minh, sau một thập niên khảo cứu về những điều khó chấp nhận, là không quân và lục quân Mỹ đã giết thường dân ở ngoài Bắc và ở trong Nam theo một chính sách lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

Sự tàn sát các dân thường ở Mỹ Lai bởi lính Mỹ đã được quần chúng biết đến nhiều, nhờ phần lớn vào sự điều tra của ký giả Seymour Hersh. Nhiều độc giả tìm biết về cuộc chiến tranh Việt Nam tưởng rằng Mỹ Lai là một việc xảy ra đơn độc, phần lớn phạm phải bởi một sĩ quan trẻ tên là William Caley. Không hẳn vậy, Nick Turse đã chứng minh rằng Mỹ Lai là vụ điển hình cho nhiều vụ tàn sát như vậy, trong một số vụ những người bị tàn sát là trẻ con, người già và phụ nữ. Trước khi giết, bao giờ cũng là hãm hiếp, tra tấn nhiều cách khác nhau, mà không có một quân nhân nào bị trừng phạt....

Học giả, nhà văn Jonathan Schell đã viết trong bài How did the Gates of Hell open in Vietnam? (Cửa địa ngục đã mở ở Việt Nam như thế nào?) trên báo Asia Times:

Tỉ mỉ gắn kết lại với nhau từ những thông tin mới được giải mật, những hồ sơ tòa án binh, những phúc trình của Lầu Năm Góc, và những cuộc phỏng vấn trực tiếp ở Việt Nam và ở Mỹ, cũng như những tài liệu trên báo chí cùng thời và tài liệu phụ, Turse phát hiện ra những tình tiết về sự tàn phá, cố sát, thảm sát, hiếp dâm, và tra tấn mà một thời được coi như là những tội ác lẻ tẻ thật ra là chuyện thường xuyên, cộng với một luồng tàn bạo liên tục, bộc lộ, năm này qua năm khác, trên khắp đất nước đó.

Nhà văn Tim O'Brien bình luận trên trang Amazon:

Không có cuốn sách nào mà tôi đọc trong vài thập niên làm tôi run rẩy như vậy với tư cách là một người Mỹ. Turse phanh phui ra thực chất một cuộc chiến quá ư tàn bạo hơn là những điều mà những người Mỹ ở trong nước được quyền biết. Turse vạch trần ra những chính sách chính thức khuyến khích binh sĩ Mỹ và không quân giáng sự khủng khiếp và đau khổ không thể hình dung được xuống người dân thường Việt Nam, theo đó là những sự bưng bít chính thức cũng kiên trì như Turse đã kiên trì trong nỗ lực điều tra trong cả một thập niên để chống lại những sự bưng bít này. Cuốn "Giết mọi thứ di động" là cuốn những người Mỹ phải đọc, vì những hàm ý trong đó về mức độ tàn bạo và dân thường chết chóc giáng lên họ và sự bưng bít trong những cuộc chiến gần đây của chúng ta chắc chắn sẽ xảy ra và làm chúng ta sửng sốt.

Nữ nhà báo Frances FitzGerald bình luận trên trang Amazon:

Nick Turse đã làm hơn nhiều người khác để chứng minh, với tài liệu, điều rất hiển nhiên: Những sự tội ác tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam không phải là lẻ tẻ và tình cờ, mà là thường xuyên xảy ra khắp nơi và là kết quả không tránh được của chính sách quân sự của Hoa Kỳ.

Nữ giáo sư sử học Đại học New York Marilyn Young bình luận trên trang Amazon:

"Cuốn sách của Nick Turse là một tài liệu căn bản, một tường trình hùng hậu và đầy xúc động đến ngay vào vùng tim đen của cuộc chiến tranh ở Việt Nam: Sự tàn sát thường dân một cách có hệ thống, chứ không là một sơ xuất, là một thủ tục hành quân đúng tiêu chuẩn. Cho đến ngày nào bản tường trình lịch sử này được thừa nhận, chính sách này vẫn sẽ được tiếp tục dưới hình thức này hoặc hình thức khác trong những cuộc chiến mà nước Mỹ sẽ tiếp tục dính vào."

Giáo sư sử học Đại học Massachusetts Christian Appy bình luận trên trang Amazon:

"Từ cuộc nghiên cứu trong hơn một thập niên trong những hồ sơ mật Lầu Năm Góc và những cuộc phỏng vấn sâu rộng các cựu quân nhân Mỹ và những người Việt sống sót, lần đầu tiên Turse vạch rõ là những chính sách của Mỹ đã đưa đến kết quả là hàng triệu người dân thường vô can đã bị giết và bị thương. Với những chi tiết gây sốc, Turse vạch rõ những hệ thống mặc định của cỗ máy quân sự Mỹ đã làm cho những tội ác trong những đơn vị chính của Mỹ không thể tránh được. Cuốn "Giết Mọi Thứ Di Động" đưa chúng ta đến từ văn khố ở Washington đầy những những hồ sơ về sự dẹp bỏ các cuộc điều tra những tội ác của lính Mỹ cho tới những thôn xã ở miền quê Việt Nam mà người dân gánh chịu trong cuộc chiến, từ những trại huấn luyện lính Mỹ trong đó những người lính trẻ được dạy để thù ghét mọi người Việt cho đến các chiến dịch khát máu như chiến dịch Speedy Express mà một vị tướng, ám ảnh bởi cách đếm xác chết đã dẫn binh lính phạm phải điều mà một quân nhân tham dự gọi là “mỗi tháng một Mỹ Lai”."

IV.D. Một số ngộ nhận thường thấy trong cuộc chiến


Phần này không nói tới những ngộ nhận ấu trĩ, cực đoan và có tính chất điên rồ như "nội chiến Nam Bắc tương tàn", "Mỹ không xâm lược", "vai trò Trung - Xô với Hoa Kỳ là như nhau, ngang nhau", "Việt Cộng kéo quân đến đâu là người dân bỏ chạy đến đó", "Tội ác cộng sản", "Mỹ-ngụy không ác, tại sơ ý trong chiến tranh thôi", "chất độc da cam là vô hại", "miền Bắc cưỡng chiếm và xâm lăng miền Nam" v.v. tồn tại trong đầu óc của một bộ phận nhỏ mà nhiều người khác đã lên án. Phần này chỉ nói về những ngộ nhận thấy nhiều ở cả những người đàng hoàng tử tế.

Ngộ nhận: Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 căng thẳng, dữ dội cho quân đội Hoa Kỳ hơn Chiến tranh Việt Nam.

Thực tế: Đối với quân đội Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam căng thẳng hơn Thế chiến II. Trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) tốn khoảng 40 ngày chiến đấu trong 4 năm. Nhưng trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tốn khoảng 240 ngày chiến đấu trong 1 năm nhờ chiến thuật Trực thăng vận.

Ngộ nhận: Hiệp định Genève 1954 quy định chia cắt đất nước Việt Nam ra thành 2 quốc gia khác biệt. Câu cửa miệng thường nghe từ một số người thiếu thông tin là: "Hiệp định Geneve chia đôi đất nước" hay "Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền theo hiệp định Geneve".

Thực tế: Bản thân hiệp định Genève 1954 không có điều khoản nào quy định chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia. Hiệp định Genève 1954 chỉ công nhận giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tạm chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho quân đội hai phía Việt - Pháp tập kết, chứ không có ý nghĩa chia cắt về chính trị hay lãnh thổ.

Đây không phải là hiệp định chia cắt đất nước như một số người thiếu thông tin đã nhầm lẫn, mà trái lại, là hiệp định lập lại hòa bình, độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương, Pháp rút quân trong 2 năm và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956.

Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần "Thỏa hiệp" và phần "Tuyên bố Cuối cùng" (Final Declaration). Phần "Thỏa hiệp", gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil, Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng quốc phòng VNDCCH. Phần này có những điều khoản chính như sau:

  • Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (Provisional Military Demarcation Line) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính bản xứ ở dưới vĩ tuyến 17.
  • Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.


Bản "Tuyên bố cuối cùng" gồm 13 đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của 3 nước Đông Dương, trong đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng, đoạn (6) (Paragraph [6]) là như sau: "Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam".

Và phần đầu của đoạn (7) nguyên văn như sau: "Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu kín." Và cuộc tổng tuyển cử đó sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.

Nói chung đây là các ý chính của hiệp ước Genève 1954:

  • Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam - Campuchia - Lào.
  • Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
  • Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập trung quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.
  • 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
  • 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam.

Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp lý, bất lợi cho việc xâm lược và chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng chính họ cũng đã "nói hớ" và vô tình cho thấy rằng hiệp định Genève 1954 không hề là hiệp định chia đôi Việt Nam.

Nhà sử học, chính trị học George McTurnan Kahin và John W. Lewis trong sách The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam), do Delta Books xuất bản năm 1967, đã cho biết: "Trong bản Tuyên ngôn đơn phương (Unilateral Declaration) của Hoa Kỳ về Hội nghị Genève không có chữ nào nói đến "Bắc Việt Nam" hay "Nam Việt Nam". Tất cả những gì mà bên đại diện Mỹ nói đến là một Việt Nam".

Những bằng chứng ở trên đã cho thấy hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước, mà ngược lại chính là quy định việc thống nhất đất nước. Chính sự xâm lăng và phá hoại tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève 1954 của Mỹ đã đưa tới sự chia đôi đất nước.

Ngộ nhận: Sau hiệp định Paris 1973 và với sự vắng bóng của đại quân Hoa Kỳ, chính Việt Nam đã vi phạm hiệp định tấn công và dứt điểm chính quyền Sài Gòn để kết liễu chiến tranh.

Thực tế: Ý trên thoạt nghe qua bên ngoài thì thấy có vẻ hữu lý, nhưng thực tế không phải vậy. Ý định của Việt Nam là ngưng bắn để có hòa bình, dùng đòn chính trị - ngoại giao đấu tranh đòi thực hiện tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần, trong đó Việt Nam đã có sẵn 2 quân bài, vũ khí chính trị là Mặt Trận và Liên Minh, Thiệu hầu như chắc chắn phải chịu lép vế. Nên Việt Nam không/chưa cần ra đòn quân sự, trái lại đã truyền lệnh cho các đơn vị miền Nam phải ngưng bắn, án binh bất động.

Mỹ-Thiệu biết đây là giai đoạn khó khăn nên đã tận lực khai thác, lợi dụng sự án binh bất động này của quân Giải phóng mà "tiên hạ thủ vi cường" (đánh trước chiếm ưu thế), mong giành lấy thế thượng phong về quân sự trong giai đoạn mới.

Chữ ký của Mỹ-ngụy còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau, thì họ đã mau chóng không giữ lời:
Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.

Những hành động phá hoại hiệp định nói trên đã không cho thấy điều đó.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, "cố vấn" và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân nhưng để lại hàng vạn sĩ quan "cố vấn" và nhân viên quân sự mặc thường phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.

Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân Lục chiến. Việc quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người Mỹ, sĩ quan Mỹ, quân nhân Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã bội ước và chuyển giao lại cho quân đội Sài Gòn.

Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).

Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân mới trên quy mô lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho chính quyền bù nhìn, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy cuộc chiến, với hàng vạn "cố vấn" và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự.

Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.



Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam đến ngày 30/4/1975 mới được tự do khi Côn Đảo và Phú Quốc được giải phóng. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.

Ngộ nhận: Chính quyền Sài Gòn bị Mỹ bỏ rơi sau sự kiện ký kết hiệp định Paris 1973. Sau khi Hoa Kỳ rút đại binh về nước thì đã cúp hoặc giảm lớn viện trợ ngay cho chính quyền Sài Gòn. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Quốc và khối xã hội chủ nghĩa tăng cường viện trợ hoặc vẫn duy trì viện trợ như cũ cho Hà Nội.

Thực tế: Nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabriel Kolko, tác giả cuốn sách Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc Chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) do NXB Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết sau khi hiệp định Paris 1973 được ký kết thì người Mỹ đã cho ông Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định, họ cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là "chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam"; không thừa nhận chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và thành phần chính trị thứ ba, như đã thỏa thuận trong hiệp định Paris.

Theo nguồn của NXB Thông Tấn, Hà Nội, viện trợ quân sự tài khóa 1973-1974 của Mỹ dành cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là 1,26 tỷ USD theo giá thời đó, tương đương 6,74 tỷ USD ngày nay.

Theo thống kê của chuyên gia kinh tế học Douglas C. Dacy trong sách Foreign Aid, War, and Economic Development: South Vietnam, 1955-1975 (Viện trợ nước ngoài, Chiến tranh, và Phát triển kinh tế: Nam Việt Nam, 1955-1975), do Đại học Cambridge (Anh) xuất bản năm 1986 và 2005, ngay sau năm 1973 (sau khi hiệp định Paris 1973 được ký kết), đến năm 1974, bên cạnh duy trì viện trợ quân sự thì Hoa Kỳ đã tăng viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn 23,8%.

Theo các tài liệu của Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau năm 1973, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam đã giảm đột biến, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ 171.166 tấn/năm trong thời kỳ 1969-1972 giảm xuống còn 16.415 tấn/năm trong thời kỳ 1973-1975.

Theo văn kiện "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua", do Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam giải mật và NXB Sự Thật xuất bản năm 1979, giai đoạn sau năm 1973 là lúc mà Trung Quốc ngày càng bộc lộ ý đồ phản bội, đi đêm với Mỹ sau lưng nhân dân Việt Nam, cũng như trước đó họ đã cố tình can thiệp vào hội nghị Paris về Việt Nam nhưng bị Việt Nam từ chối.

Ngoài ra, theo các tướng tá cũ của quân đội Sài Gòn như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, thì vào những ngày cuối tháng 4/1975, Trung Quốc đã thông qua tướng Francois Vanussème, tùy viên quốc phòng và an ninh của Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn để chuyển đến "tổng thống" Dương Văn Minh ý định can thiệp của Trung Quốc để cứu chính quyền Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch, giữ lại tình trạng chia cắt Việt Nam. Người Trung Quốc muốn thông qua người Pháp là vì ông Dương Văn Minh là một người thân Pháp, đã từng phục vụ trong quân đội Pháp.

Ngộ nhận: Nguyễn Văn Thiệu lấy cắp 16 tấn vàng và "báo chí Hà Nội có chủ trương khai thác đề tài này để rêu rao tuyên truyền bôi xấu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu".

Thực tế: Theo cựu nhân viên tình báo CIA chi nhánh Sài Gòn Frank Snepp trong sách Decent Interval (Khoảng thời gian tao nhã), do Penguin Books xuất bản năm 1980, thì đêm 25 tháng 4, các nhân viên CIA đã đưa Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu ra đi với danh nghĩa là đặc sứ của "Việt Nam Cộng hòa" đến Đài Bắc (Đài Loan) để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (qua đời ngày 5 tháng 4). Và khi đó Thiệu không còn quyền lực gì đối với 16 tấn vàng vẫn nằm nguyên vẹn trong hầm chứa của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Còn dư luận thì vẫn bán tín bán nghi về tin đồn ông Thiệu mang vàng đi, dù đã có tuyên bố cải chính của chính quyền Sài Gòn ngày 16/4/1975.

Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết: Nguyễn Văn Hảo vào gặp "tổng thống" Trần Văn Hương và dọa rằng: "Nếu tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc thì trong trường hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên án là phản quốc!". Ông Hương đồng ý giữ vàng lại. Sáng ngày 24 tháng 4 (một ngày trước khi ông Thiệu rời Việt Nam), ông Hảo điện cho cố vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: "Tổng thống" Trần Văn Hương đã quyết định hoãn vô thời hạn việc chuyển vàng ra khỏi Việt Nam, cho đến khi một chính phủ mới được thành lập.

Đại sứ Graham Martin ngạc nhiên trước tin này, nhưng ông ta cũng không cho Trần Văn Hương hủy bỏ lệnh ấy mà quyết định tạm để vàng ở lại vì nó có thể nâng cao vị thế nào đó của chính quyền Sài Gòn khi thương lượng với phía kháng chiến. Ông lệnh cho chiếc máy bay tiếp tục đợi cho đến nửa đêm ngày 27 tháng 4. Sau này khi trả lời phỏng vấn Ts. Nguyễn Tiến Hưng ngày 27/3/1985, Martin kể: "Vào lúc chót, tôi có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài Gòn để giải phóng số vàng, mang nó đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi…. Vàng vẫn còn lại ở đó".

Như vậy, Nguyễn Văn Thiệu không có và không cần lấy cắp 16 tấn vàng đem đi vì tài sản của ông ta, kể cả bên Mỹ, là đã dư dả cho ông ta và con cháu sống sung túc cả đời. Báo chí cách mạng Việt Nam cũng chưa bao giờ có chủ trương tuyên truyền về một tay sai Mỹ nên không có chủ trương khai thác vụ 16 tấn vàng để bôi nhọ Thiệu.

Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tại vị, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải tin về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của ông ta. Chính báo giới Sài Gòn là những cơ quan truyền thông đầu tiên đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải chính của chính quyền Sài Gòn, nhưng sau khi ông Thiệu đã ra đi, ngày 28 tháng 4, báo Độc Lập (một tờ báo của ngụy quyền) đã trích dẫn lại một bản tin của hãng thông tấn Reuters về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu: "Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo". Các báo chí khác, trong và ngoài nước, đã viết tường thuật nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

Trong buổi họp báo và trả lời phỏng vấn được thực hiện vào ngày 16/6/1990 tại Orange County, California, để "giải oan" cho mình, Nguyễn Văn Thiệu đã thừa nhận việc "cộng sản đăng báo khen ngợi những tên viên chức ngân hàng phản bội" và "những tên công chức ngân hàng đã dùng vàng tâng công với cộng sản rằng không có tấn vàng nào bị mất trên báo chí cộng sản" (trong đó có ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng, từng làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia). Như vậy, có thể thấy rằng không có chủ trương khai thác chuyện 16 tấn vàng để tuyên truyền chống ông Thiệu trên báo chí.

Ngay sau khi giải phóng các nhân vật coi giữ tài chính của ngụy quyền đã ra hợp tác ngay với chính quyền cách mạng. Báo chí cách mạng khi đó đã đăng tải các phỏng vấn đầy đủ rằng nhờ tài trí của quân dân và công lớn của những viên chức ngụy quyền giác ngộ cách mạng nên nhân dân đã không bị mất 1 xu.

Như thế rõ ràng là không có chính sách tuyên truyền nói xấu Thiệu hay tuyên truyền gì về 16 tấn vàng. Sở dĩ tin đồn thất thiệt này được vang xa có lẽ một phần do nhân dân vốn đã không ưa Thiệu, rồi cứ thế một đồn mười, mười đồn trăm, rồi sau đó nhiều nhà báo do không nắm vững nên cũng viết lại theo các lời đồn. Nhưng nhiều phần là do chính những quan chức tham nhũng trong bộ máy ngụy quyền vì tham lam nên đã ghen ăn tức ở mà nghi ngờ và tố nhau ăn cắp vàng. Thời điểm ấy quả thật nhiều kẻ muốn thừa cơ lấy cắp vàng đi trốn, song không ai ngờ quân Giải phóng lại đánh nhanh và giải quyết nhanh đến như vậy, họ chưa kịp làm thì cách mạng đã đánh tới. Bọn họ ghét nhau và rất ghen ghét Thiệu nên chính bọn họ đã đồn đại lên, cộng với sự oán ghét của quần chúng Sài Gòn dành cho Thiệu và ngụy quyền Sài Gòn, nên tiếng xấu càng đồn xa.

Sau đây là một số ngộ nhận thường nghe, thường thấy từ những người Mỹ và cả một bộ phận công chúng quốc tế:

Ngộ nhận: Những tội ác của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đúng là rất phổ biến, nhưng đó là do sơ ý, vô tình, vô ý thức, giết nhầm, các hung thủ bị ảnh hưởng từ tác động của ma túy, tâm thần, sự khốc liệt của chiến tranh. Họ công nhận các tội ác và họ lên án nó, nhưng đồng thời họ ngộ nhận nguyên nhân tội ác. Họ lầm tưởng những hành động cố sát là những hành động nông nỗi xuất phát từ một trạng thái tâm lý bất bình thường, mất cân bằng, sự khủng hoảng về tư tưởng, tâm lý, tinh thần trong lửa đạn.

Thực tế: Phần ngay ở trên: "Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận" đã cho biết thực tế chuyện gì đã xảy ra. Phần lớn những tội ác chiến tranh đó từ đâu mà có.

Ngộ nhận: Quân đội Hoa Kỳ tuy thua cuộc chiến, nhưng Lục quân Hoa Kỳ chưa từng thua Việt Cộng một trận đánh nào trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Thực tế: Giáo sư Đại học DeAnza (Mỹ) Michael Kelley trong bài tham luận tháng 7 năm 1998 "Myths & Misconceptions: Vietnam War Folklore" (Truyền thuyết & quan niệm sai lầm: Các "sự tích dân gian" về Chiến tranh Việt Nam), đã viết về ngộ nhận này như sau:

"Truyền thuyết này có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết hơn là sự phân tích hợp lý. Nó hoàn toàn bỏ qua thực tế là kẻ thù của chúng ta đã tiến hành chiến tranh du kích phụ thuộc vào chiến thuật 'bắn rồi chạy' (hit-and-run) thiết kế để tránh ưu thế hỏa lực áp đảo của Mỹ. Những người ủng hộ thuyết này dựa trên những thước đo cổ điển của lý thuyết chiến tranh thông thường, nghĩa là, bất cứ ai nắm giữ mặt đất sau khi kết thúc trận đánh thì là người chiến thắng. Nhưng xem sự sáng suốt của các chiến thuật thực tế ở đó (Việt Nam), sẽ là công bằng để nói rằng người Mỹ đã thua nhiều trận đánh.

Trong khi sự thật là quân đội Mỹ đã chiếm được mặt đất tại thời điểm kết thúc trong hầu hết các trận đánh, kẻ thù thường chọn thời điểm buông tha vị trí đó sau khi đã hoàn thành các kế hoạch chiến lược quan trọng. Và sau đó vài giờ thì chiến trường thường xuyên vẫn bị người Mỹ bỏ rơi. Kẻ thù gần như luôn luôn buông ra lãnh thổ ngay sau khi nó đã gây cho quân đội Mỹ lúng túng và bực bội.

Tại Việt Nam, chiến thắng tốt nhất có thể được đo bằng cách xem một lực lượng đạt được mục tiêu của mình trong bất kỳ hoạt động nào. Trên cơ sở đó, quân Bắc Việt / Việt Cộng có thể đã thành công nhiều hơn so với người Mỹ, thực tế là khoảng 85% các hoạt động quân sự, tất cả các địa điểm đánh nhau đã được khởi xướng bởi kẻ thù. Thậm chí nếu tính theo kiểu Mỹ thông thường thì người Mỹ vẫn đã thua một số lượng đáng kể các trận đánh. Trong các cuộc đụng độ lớn đầu tiên của cuộc chiến tranh trong các thung lũng sông Ia Đrăng (Tây Nguyên), tháng 11 năm 1965, ở đó, cả một tiểu đoàn 1 Kỵ binh của Mỹ đã thật sự bị tiêu diệt khi nó vấp vào một trung đoàn Bắc Việt. Khoảng 155 người đã thiệt mạng và 121 người bị thương chỉ trong vài giờ giao tranh ngắn ngủi. "Chiến thắng" chắc chắn không phải là từ ngữ trên môi của bất kỳ người Mỹ nào đủ may mắn để tồn tại trong đám cháy đó.

Vào ngày 2/7/1967, trong quá trình hoạt động, hai tiểu đoàn 1 và 9 Thủy quân Lục chiến đã bị một trung đoàn Bắc Việt phục kích. Chỉ có một trung đội duy nhất còn sống sót để kể lại câu chuyện. Nó không nhiều trong số ít những người tự coi mình là kẻ chiến thắng. Các tổn thất đáng kể như vậy đều khá phổ biến trong suốt cuộc chiến. Trong những cuộc tấn công, quân Bắc Việt / Việt Cộng thường thành công hoàn toàn trong mục tiêu của họ."

Ngộ nhận: Lính Mỹ chỉ gây tội ác với dân, còn đối với lính Sài Gòn thì xử tốt, nhân đạo, nhân văn. Lính Mỹ và lính Sài Gòn phối hợp tác chiến ăn ý.

Thực tế: CIA đã đứng sau giật dây đảo chính, lật đổ các "nhà lãnh đạo" trong ngụy quyền. Máy bay ném bom Mỹ thường xuyên "dội bom nhầm" lên trên quân lính, sĩ quan, tướng tá ngụy, thủ tiêu bằng nhiều hình thức khác nhau, gây ra nhiều cái chết mờ ám cho cả những quan chức cao cấp ngụy quyền, ví dụ các tướng Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Hiếu. Trong khi chưa bao giờ có các trường hợp không quân ngụy "dội bom nhầm" lên quân Mỹ. Ngay cả trong ngụy quân, ngụy quyền, nhiều người cũng cho rằng đây là những động thái trừ khử những người/nhóm Mỹ không ưa, hoặc để răn đe làm gương cho những người khác. Chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Hữu Hạnh, trả lời phóng viên của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010, đã nói như sau: "Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay."

Giáo sư Micheal Kelley nói trên đã viết tiếp về ngộ nhận này như sau:

Tôi không có ý định xúc phạm các độc giả gốc Việt Nam, nhưng một số những gì sẽ được thảo luận ở đây có thể là rất khó chịu cho họ nghe. Những gì sẽ được nói là những khái quát dựa trên những quan sát thực tế của tôi về các thái độ và hành vi của lính Mỹ tại Việt Nam. Có thể có những trường hợp ngoại lệ, nhưng báo cáo này là một nỗ lực trung thực để định lượng những gì tôi đã thấy và trải nghiệm.

Trước khi phục vụ ở đó, hầu hết các nhân viên Mỹ rất ít hiểu biết về đất nước Việt Nam, hay có ít nhiều kiến thức về các nền văn hóa và phong tục dân tộc của nó. Sự thiếu hiểu biết đó trở nên phức tạp bởi sự thất bại nghiêm trọng của quân đội để cung cấp nội dung đào tạo trong vấn đề đó. Người lính bộ binh trung bình có lẽ chỉ tốn 1 hoặc 2 giờ được đào tạo về nền văn hóa và lịch sử Việt Nam. Vẫn có những người khác không hề được đào tạo gì về đất nước họ sẽ sinh sống và chiến đấu trong ít nhất một năm. Kết quả là, các thái độ và hành động của người Mỹ đã bị biến dạng bởi những sự hiểu biết rất hạn chế về các dân tộc Việt Nam.

Đáng buồn thay, tôi đã có thể nói rằng hầu hết quân nhân Mỹ phát triển sự mất lòng tin cơ bản và sự căm ghét đối với Việt Nam nói chung, người Bắc hay Nam Việt Nam không quan trọng. Các thái độ thô lỗ, kiêu căng và cao ngạo của Mỹ tôi nghĩ rằng đó là công bằng để nói rằng người Việt Nam cũng phát triển một tâm lý ghét Mỹ ngược lại.

Các ý kiến của quân đội Mỹ về quân lính VNCH hầu như đều là tiêu cực, nếu không nói là hoàn toàn khinh ghét. Các sĩ quan VNCH đã đạt được thứ hạng là nhờ sự giàu có và ảnh hưởng chính trị hơn là kỹ năng thực tài. Kết quả quân đội VNCH đã lười biếng và không đủ năng lực theo tiêu chuẩn quân đội Mỹ.

Trên thực tế, trong hầu hết các trận giao tranh, QLVNCH tránh tiếp xúc địch như một niềm tin tôn giáo và vô cùng nhút nhát trong việc giải quyết chiến trường với kẻ thù. Những chuyện này đã gây thất vọng và tức giận cho quân đội Hoa Kỳ. Nhiều binh sĩ Mỹ ngày nay vẫn giữ quân lực VNCH trong một tâm lý khinh bỉ lớn, bởi vì họ không muốn xuất hiện để đấu tranh cho sự tồn tại của họ.

Trong nhiều trường hợp, QLVNCH thậm chí không dám tiếp cận kẻ thù và dựa dẫm, lệ thuộc vào quân đội Mỹ bất cứ khi nào có thể. Quan chức chính phủ Việt Nam Cộng hòa thường xuyên bị xem thường bởi những người lính trung bình. Tham nhũng là phổ biến và được che đậy vụng về. Rõ ràng chúng tôi thấy có rất nhiều quan chức chính phủ quan tâm hơn vào việc tham lam bòn rút hơn việc đánh nhau và giành thắng trước Việt Cộng.

Trong nhiều trường hợp, nó có vẻ rõ ràng rằng các quan chức Việt Nam Cộng hòa đã chơi cả hai cách, vẫy cờ Việt Nam Cộng hòa trong một tay và lá cờ Giải phóng ở tay kia. Mặt khác, trong khi những người lính trung bình của Mỹ có thể không thích đối phương, song hầu hết đều có một sự tôn trọng khả năng chiến đấu, lòng can đảm và quyết tâm của họ. Nhiều người trong số chúng tôi đều kinh ngạc trước những khó khăn và chịu đựng của đối phương. Rõ ràng hầu hết bọn họ là những người đàn ông và phụ nữ cực kỳ dũng cảm, ngoan cường, tháo vát và thật sự tin tưởng vào sự nghiệp của họ. Trái lại, quân đội VNCH đã không sở hữu những thuộc tính đó và còn tương phản đáng ngạc nhiên, hiện thực đó đã đặt câu hỏi nghiêm trọng trong tâm trí của chúng tôi về sự tham gia của những người lính chúng tôi. Nhiều hơn một vài người trong chúng ta đã đem cảm giác khó chịu của Mỹ đi quá xa. Đáng buồn thay, nội dung cơ bản của tâm lý phân biệt chủng tộc đó đã chiếm ưu thế và thường điều chỉnh thái độ và hành động đối với người Việt Nam của chúng tôi. Đó là hoàn cảnh không may làm lem luốt quan hệ của chúng tôi với người Việt. Nó cũng dẫn đến nhiều hiểu lầm, những sai lầm ngu ngốc và trong một số trường hợp để lại hậu quả rất bi thảm."

Xuất phát từ tâm lý thù địch với người Việt Nam, kể cả trong hàng ngũ lính ngụy, và tâm lý chán nản, bất lực trước một cuộc chiến khó khăn vô vọng tìm không ra cách thắng, theo Gs. Micheal Kelley, các hạ sĩ quan Mỹ thời đó hay nói đùa với nhau một câu cửa miệng như sau: "Để thắng cuộc chiến này, tất cả những gì chúng ta cần làm là đặt tất cả người Nam Việt Nam trên tàu thuyền ở biển Nam Trung Hoa và sau đó tấn công hạt nhân cho hai miền thành than. Sau đó, chúng ta cho tàu chìm."

IV.E. Tình nghĩa giữa Việt Nam với nhân dân Mỹ và thế giới


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam và bày tỏ tinh thần ủng hộ Việt Nam của người nước ngoài đã diễn ra khắp thế giới, đặc biệt ở ngay tại chính quốc Hoa Kỳ, và đặc biệt dữ dội trong giai đoạn từ năm 1964 đến 1973 khi đại quân Hoa Kỳ trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam.

Tại Mỹ, phong trào bao gồm hơn 200 tổ chức quần chúng, trong đó có nhiều tổ chức nằm dưới dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Phối hợp Toàn quốc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Được hàng trăm thành phố, hàng chục vạn người tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức phong phú và quyết liệt (mít tinh, biểu tình, đốt thẻ quân dịch, bãi khóa, chống lính, tự thiêu....).

Một vài sự kiện tiêu biểu như: Cuộc biểu tình đồng loạt của khoảng 10 vạn người ở 60 thành phố trong ngày Quốc tế phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (15-17/10/1965), do Ủy ban Ngày Việt Nam tổ chức; Tuần lễ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, tháng 10/1967 của khoảng 2 vạn người khắp nước Mỹ tập trung về Washington (có sự phối hợp đấu tranh của người dân các nước Canada, Anh, Đức, Pháp, Bỉ, Ý, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Úc....); có 16 vụ tự thiêu để phản đối cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam; năm 1968, gần 5 vạn thanh niên trốn lính trong phong trào chống đi lính; gần 1 ngàn trường cao đẳng và đại học tổng bãi khóa; gần 300 ngàn công nhân thuộc ngành hàng không, ngành điện.... đình công, làm tê liệt các ngành sản xuất này.

Xuất phát từ sự đàn áp bằng bạo lực và sự kỳ thị của cảnh sát da trắng tại nhiều nơi, ngày 7/8/1966 các cộng đồng người da đen đã phản ứng mạnh và gần như nổ ra nội chiến ở khoảng 100 thành phố, nhất là các thành phố ở California và New York, vùng Tây Nam và Đông Bắc Hoa Kỳ.

Khoảng 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh cưỡng bách quân dịch, khoảng 2 triệu người Mỹ bị các chính quyền Mỹ cáo buộc "gây thiệt hại bất hợp pháp" vì phản đối chiến tranh Việt Nam. Trong phong trào chống bắt lính, có khoảng 75 ngàn người Mỹ đã phải bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ, và ở bên ngoài họ tiếp tục đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, trong đó có người thanh niên Bill Clinton, người sau này là tổng thống Hoa Kỳ.

Trong những lần biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam, người Mỹ giương cao các biểu ngữ: "Hey, hey LBJ, how many kids have you killed today?" (Lyndon B. Johnson, hôm nay ông đã giết bao nhiêu trẻ em rồi?), "Ho, Ho, Ho Chi Minh! The NLF is going to win!" (Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh! Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ chiến thắng!).

Tóm tắt lại, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã được bạn bè thế giới và Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ bằng nhiều hình thức phong phú. Trong đó, có:

  • Hơn 10 Ủy ban quốc tế đoàn kết với Việt Nam của các tổ chức dân chủ, tôn giáo và tổ chức xã hội trên toàn thế giới.
  • Hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở hầu hết các nước trên thế giới.
  • Hơn 30 hội nghị quốc tế về Việt Nam và nhiều hội nghị quốc tế khác đã dành thời gian thảo luận bàn biện pháp để ủng hộ Việt Nam.
  • Hàng trăm nước có mít tinh, biểu tình, bãi công chống Mỹ xâm lược Việt Nam.
  • Hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam.
  • 16 nước có phong trào hiến máu ủng hộ Việt Nam.
  • 48 người ở 4 nước ngoài tự thiêu (trong đó có 16 công dân Mỹ) để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
  • 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị người dân đập phá, cờ Mỹ bị nhân dân ở 73 nước đốt để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Sư đoàn Không Kỵ 1 của quân đội Mỹ tại khu vực cách Quảng Trị 8km về hướng nam (13/3/1968). Nơi đây từng là nơi đặt Bộ chỉ huy tiền phương của QĐNDVN, sau khi rút quân đã để lại một thông điệp trên tường bằng tiếng Anh. Tạm dịch: Không có sự hận thù giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ. Tại sao phải giết nhau? Hãy chung tay xây đắp tình bằng hữu của chúng ta". Ảnh: Bettmann/Corbris
Người dân Mỹ giương cao cờ Mặt Trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và cờ Hoa Kỳ để nói lên tình hữu nghị Việt - Mỹ và bày tỏ nguyện vọng hòa bình, phản đối cuộc chiến của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam.

IV.E-1. Ngọn lửa Morrison

Ngày 2/11/1965, 8 tháng sau khi quân đội viễn chinh Mỹ bắt đầu đặt chân vào Đà Nẵng của Việt Nam, một người Mỹ là Norman Morrison đã tự thiêu ngay trước Lầu Năm Góc ở thủ đô Washington để phản đối Chiến tranh Việt Nam. Hành động này đã làm bùng lên phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam đã âm ỉ từ lâu ngay trong lòng nước Mỹ.

Ông Norman Morrison quê quán ở Erie thuộc bang Pensylvania, Hoa Kỳ. Năm 1959, ông nhận bằng Cử nhân Thần học tại Đại học Pittsburgh Seminary và gia nhập hội "Những người bạn", một tổ chức gồm những người hoạt động vì hòa bình thế giới. Năm 1961-1962, ông dạy Kinh Tân ước và Cựu ước tại một trường trung học. Ông là một trong những người hoạt động tích cực trong phong trào hoạt động phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của chính quyền Lyndon B. Johnson.

Từ năm 1965, khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam và dùng không quân đánh phá tràn lan ra các tỉnh miền Bắc Việt Nam, Morrison đã nhiều lần xuống đường phản đối, nhưng cuộc chiến tranh ngày một khốc liệt hơn. Ông nghĩ rằng các khẩu hiệu, băng rôn và các cuộc tuần hành không làm những người cầm quyền chú ý thì anh phải dùng tới biện pháp cuối cùng: Ngọn lửa của thân thể mình! Thời điểm đó, Morrison đã có vợ và hai con gái, nhỏ tuổi nhất là cháu bé tên Emily, mới 18 tháng tuổi. Buổi chiều ngày 2/11/1965, Morrison bế bé Emily đến sát Lầu Năm Góc, trụ sở của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, bên dòng sông Potomac, sau khi đã viết lá thơ gởi lại cho vợ. Morrison đặt cháu Emily ra xa rồi tưới xăng, châm lửa tự thiêu, ánh lửa bùng lên như một thông điệp của người dân Mỹ đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và các tội ác của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Norman Morrison


Theo hồi tưởng của vợ Norman Morrison, bà Anne Morrison Welsh, vào buổi sáng hôm đó, Morrison bế con gái thứ hai của mình, bé Emily, đi đến trước Lầu Năm Góc. Sau đó, ông đặt Emily xuống, gởi cho một người trong đám đông bạn bè đồng chí hướng vây quanh, tự đổ dầu lên người và châm lửa.

Trong cuốn hồi ký của mình, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (1961-1968) Robert McNamara đã thú nhận: "Cái chết của Morrison không chỉ là bi kịch cho gia đình anh ta mà còn cả cho tôi và nước Mỹ. Đó là một tiếng kêu gào chống lại những giết chóc đang hủy hoại cuộc đời của những người Mỹ và người Việt."

Trong phong bì để lại cho người vợ trước khi tự thiêu, Norman Morrison viết:

"Anne yêu quý, đừng chỉ trích anh. Đã nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, anh chỉ cầu nguyện được thấy điều anh phải làm. Sáng nay, thật tình cờ anh đã thấy nó, rõ ràng như điều anh biết vào đêm thứ sáu, tháng 8/1955 rằng em sẽ trở thành vợ anh.... Hãy hiểu rằng anh yêu các con, nhưng phải hành động vì những đứa trẻ trong ngôi làng của vị linh mục".


Vợ của Morrison và hai người con gái đã tới Việt Nam vào năm 1999 và họ đã gặp nhà thơ Tố Hữu, người đã sáng tác bài thơ "Emily, con ơi" nổi tiếng.

Ba tuần sau khi ông Morrison hy sinh, bạn bè của ông đã tổ chức một lễ tưởng niệm. John Roemer, một trong những bạn đồng hành của Morrison đã lý giải về hành động tự thiêu của bạn mình: "Trong một xã hội mà mọi thứ đều bình thường khi con người thả bom xuống mục tiêu chính là đồng loại của mình…. Đối với Morrison thì như thế là không bình thường và thông điệp của anh ấy là kêu gọi hãy dừng lại".

Ngay sau sự kiện lịch sử đó, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ "Ê mi ly con ơi" nổi tiếng, để tưởng nhớ ông Morrison và tưởng niệm sự kiện này:

Ê mi ly con ơi!
Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ...
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn, mất
Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật!
Giôn-xơn!
Tội ác bay chồng chất
Cả nhân loại căm hờn
Con quỷ vàng trên mặt đất.
Mày không thể mượn nước son
Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật!
Mác Na-ma-ra
Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma
Của toà nhà năm góc
Mỗi góc, một châu.
Mày vẫn chui đầu
Trong lửa nóng
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.

Hãy nhìn đây!
Nhìn ta phút này!
Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay
Ta là Hôm nay
Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi!
Ta đứng dậy,
Với trái tim vĩ đại
Của trăm triệu con người
Nước Mỹ.
Để đốt sáng đến chân trời
Một ngọn đèn
Công lý.

Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ
Nhân danh ai?
Bay mang những B 52
Những na-pan, hơi độc
Từ toà Bạch Ốc
Từ đảo Guy-am
Đến Việt Nam
Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc
Để đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chỉ biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biết đi trường
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ!

Nhân danh ai?
Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài
Ôi những người con trai khoẻ đẹp
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Cho con người hạnh phúc hôm nay!

Nhân danh ai?
Bay đưa ta đến những rừng dày
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Những làng phố đã trở nên pháo đài ẩn hiện
Những ngày đêm đất chuyển trời rung...
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!

Hãy chết đi, chết đi
Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ!
Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi!
Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời
Của một người con. Của một con người thế kỷ

Ê-mi-ly, con ơi!
Trời sắp tối rồi...
Cha không bế con về được nữa!
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
Cho cha nhé
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói loà
Sự thật.

Tố Hữu


Bà Anna Morrison Welsh trong chuyến thăm Việt Nam nhân dịp lễ kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam tháng 4 năm 1999.


Khi hay tin về vụ tự thiêu của ông Morrison, Bác Hồ đã gởi lời chia buồn tới bà Anna Morrison Welsh, vợ của Norman Morrison. Còn đối với Emily, mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên cô mới được đọc bài thơ của nhà thơ Tố Hữu. Trong bài thơ trả lời "Gửi ngài Tố Hữu", cô đã nói cảm giác của mình lần đầu tiên được tiếp xúc với bài thơ Tố Hữu viết về người cha:

“Khi tôi mười lăm tuổi
Một người bạn nói
Có một bài thơ
Về tôi.
Một tuần sau lá thư đến
Bằng đường bưu điện
Tôi những muốn mở nó ngay
Nhưng rồi kiềm chế mình
Tôi đã chạy ra ngoài
Ðến dưới gốc một cây thông lớn
Ngồi một mình trên cỏ
Và khi cảm thấy thật bình yên
Mới mở thư ra.
Ngay khi đọc những dòng chữ đầu tiên
Tôi đã khóc…”.

Cô bày tỏ lòng biết ơn nhà thơ Tố Hữu vì nhờ ông mà nhiều người Mỹ biết được ý nghĩa sự hy sinh của cha cô. Và trong buổi gặp mặt với nhà thơ Tố Hữu, chính Emily đã đọc bài thơ do mình sáng tác. Sau khi nghe Emily đọc bài thơ, nhà thơ Tố Hữu đã cảm động đứng dậy ôm cô vào lòng. Rồi nhà thơ Tố Hữu đọc tặng khách một bài thơ mà ông mới sáng tác nói về cái chết, sự hy sinh và dâng hiến, vừa là tâm sự riêng của tác giả (lúc này nhà thơ đã già yếu), đồng thời cũng gần gũi với câu chuyện về ngọn lửa Morrison:

"Xin tạm biệt bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đường, tro gửi đất
Sống là cho và chết cũng là cho".

Mặc dù hơn ba năm sau khi tiếp gia đình bà Morrison thì nhà thơ Tố Hữu mới từ trần (tháng 12/2002), nhưng bài thơ ông đọc tặng khách cũng là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác thi ca của ông.
Tờ báo The Sun tại Baltimore, Maryland đưa tin sự kiện Morrison tự thiêu
Một diễu hành nhỏ ở Philadelphia, Pennsylvania (26/3/1966). Người diễu hành trưng biểu ngữ đòi quyền tự quyết cho Việt Nam và rút quân đội về.


Ngày 15/11/1969, bốn năm sau đó, một cuộc tuần hành khoảng 250 ngàn người nổ ra ở đại lộ số 5 trung tâm New York, chỉ cách Quảng trường Thời đại (Times Square) vài dãy phố. Cùng lúc là hàng loạt các cuộc xuống đường ở nhiều thành phố lớn tại cả bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ.

Cuộc biểu tình này vượt tầm kiểm soát của chính quyền Mỹ. Các quan chức Mỹ hỏi nhau: chuyện gì đang xảy ra và tại sao? Trước đó, người Mỹ chỉ nghe về cuộc chiến tranh Việt Nam qua loa tuyên truyền của chính quyền Mỹ. Nhưng cho đến cuộc tấn công mùa xuân 1968, báo chí Mỹ, đặc biệt là truyền hình Mỹ đã truyền tải hình ảnh cuộc chiến Việt Nam đến tận từng gia đình người Mỹ. Người Mỹ nhìn thấy tận mắt binh lính họ châm lửa đốt nhà dân thường, bắn chết người vô tội, những em bé bị bom napalm bốc cháy, tòa đại sứ Mỹ bị đánh úp, binh lính Mỹ kéo lê xác đồng đội….
Người Mỹ châm biếm "con rối Sài Gòn" trong một cuộc xuống đường diễu hành phản chiến.

Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên Đại học Tiểu bang Kent (bang Ohio) ngày 4/5/1970 đã bị Vệ binh quốc gia Mỹ xả súng vào. Kết quả là 4 sinh viên bị bắn chết và 9 người khác bị thương.

Vụ xả súng Đại học Tiểu bang Kent đã gây sốc toàn nước Mỹ. Hàng trăm thành phố nổi dậy, có thể nói cả một thế hệ thanh niên và trung niên, đặc biệt cộng đồng người gốc Phi và người gốc Mỹ Latinh, đã tham gia phong trào phản chiến. Đó thật sự là cuộc nội chiến ngay trong lòng nước Mỹ. Có thể nói cuộc chiến đấu ngoan cường của dân tộc Việt Nam đã làm rung động lương tri của nhân dân thế giới và nhất là nhân dân Mỹ, do đó dư luận thế giới thời đó đã gọi Việt Nam là "lương tâm của thời đại".
Biểu tình phản đối chiến tranh ở thủ đô Washington, D.C. (1967).
Cảnh sát trấn áp những người biểu tình giương cờ Mặt Trận ủng hộ Việt Nam ở London, Anh (1968).

Người biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tuần hành xuống đường 81 ở Thành phố New York ngày 27/4 năm 1968.

IV.E-2. Biểu tượng Martin Luther King

Ngày 4/4/1967, giữa lúc bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ trút xuống Việt Nam, một người Mỹ gốc Phi tuyên bố trước công chúng ở New York: "Tôi nói với tư cách một người anh em của những người Việt Nam nghèo khổ" và kêu gọi: "Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm này". Người đó là mục sư Martin Luther King, Jr., là một nhà tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền ở Mỹ. Ông không những nổi danh ở Mỹ mà còn trên thế giới. Ông là một thủ lĩnh nổi tiếng của phong trào đấu tranh đòi quyền công dân, bình đẳng chủng tộc cho người da màu, da đen ở Mỹ.

Ngoài ra, ông còn là người kiên quyết phản đối cuộc chiến tại Việt Nam và hoạt động nhiệt tình cho nền hòa bình của Việt Nam. Các trường học công lập của Mỹ ngày nay chỉ chủ yếu dạy về nỗ lực đòi quyền bình đẳng cho người da màu, da đen của Martin Luther King, Jr., tránh né quan điểm của ông về Chiến tranh Việt Nam và các hoạt động phản chiến của ông, nhiều trường hoàn toàn lờ đi không nhắc đến những chuyện này.

Đúng một năm sau, ngày 4/4/1968, ông đã hy sinh trong cuộc đấu tranh đó. Ông bị ám sát ở Memphis, Tennessee và đến nay "vẫn chưa tìm ra được hung thủ chủ mưu", "chưa thể điều tra được". Hồ sơ FBI về vụ án này đã bị xếp xó từ rất lâu. Từ đó về sau Martin Luther King, Jr. đã trở nên một biểu tượng nổi tiếng trong lòng dân Mỹ, nhất là người Mỹ da màu, người Mỹ gốc Phi, đến độ sau này trong các ngày lễ chính thức hàng năm ở Mỹ có một "ngày Martin Luther King".

Người da đen biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam, với biểu ngữ: "Chưa có người Việt Nam nào gọi chúng tôi là 'mọi' (như cách gọi từ nhiều người da trắng ở Mỹ)."

Từ giữa năm 1965, Martin Luther King, Jr. đã yêu cầu: "Cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải được chấm dứt. Phải giải quyết nó bằng thương lượng". Ông phản đối Chiến tranh Việt Nam trước hết vì nó trực tiếp gây hại cho cuộc sống của những người Mỹ gốc Phi. Để có tiền cho chi phí chiến tranh, chính phủ Hoa Kỳ đã cắt giảm nhiều chương trình an sinh xã hội cho dân nghèo, đa số là người da màu. Ông và các cộng sự tính toán ra và cho biết chính phủ Mỹ đã tiêu tốn 322.000 USD để giết 1 người du kích ở Việt Nam, nhưng chỉ chi 53 USD cho 1 đầu người trong cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ.

Nạn phân biệt chủng tộc, kỳ thị màu da còn thể hiện trong chiến tranh. Người da đen chỉ có 13% dân số Mỹ, nhưng chiếm đến 28% số lính Mỹ bị đẩy ra chiến trường. Chỉ có 2% sĩ quan là người da đen. Và tỷ lệ lính da đen chết trận tại Việt Nam luôn cao hơn người da trắng một cách bất bình thường.

Martin Luther King, Jr. đã vạch trần chiêu bài "bảo vệ tự do" giả hiệu mà chính phủ Mỹ thường dùng làm danh nghĩa khai chiến và cưỡng bách thanh niên sang Việt Nam. Ông nói: "Thanh niên da đen bị gửi đi xa 8.000 dặm để bảo vệ tự do cho Đông Nam Á, cái tự do mà họ không tìm thấy ở tây nam Georgia hay ở đông Harlem".
Mục sư Martin Luther King, Jr.


Còn một lý do khác, rộng lớn hơn và cao thượng hơn, thôi thúc ông phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã được ông trình bày trong bài nói chuyện tại New York ngày 4/4/1967. Ông rà soát lại chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong 2 thập niên của 4 đời tổng thống: Truman, Eisenhower, Kennedy và Johnson và ông nhận ra rằng trong khi chính phủ Mỹ luôn tự nhận là "lãnh đạo của thế giới tự do" thì chính Mỹ đã đứng về phía thực dân Pháp để chống lại khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam. Sau đây là một vài trích đoạn phát biểu của ông trong bài nói chuyện ngày 4/4/1967:

Năm 1945, người dân Việt Nam tuyên bố nền độc lập của mình…. Họ được Hồ Chí Minh lãnh đạo. Dù họ đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào bản Tuyên ngôn độc lập của họ, chúng ta vẫn từ chối công nhận họ. Thay vào đó, chúng ta quyết định ủng hộ Pháp trong việc tái chiếm thuộc địa cũ…. Với quyết định bi thảm đó, chúng ta đã bác bỏ một chính phủ cách mạng đang đi tìm quyền tự quyết, một chính phủ được thành lập bởi chính những lực lượng bản xứ, trong đó bao gồm một số người cộng sản….

Trong 9 năm sau đó, chúng ta khước từ quyền độc lập của người dân Việt Nam. Trong suốt 9 năm đó, chúng ta ủng hộ mạnh mẽ Pháp trong nỗ lực đặt lại ách thực dân lên nước Việt Nam. Trước khi chiến tranh kết thúc, chúng ta trang trải 80% chi phí chiến tranh cho Pháp.

Ngay trước khi thua ở Điện Biên Phủ, Pháp đã bắt đầu tuyệt vọng về hành động liều lĩnh của họ, nhưng chúng ta thì không. Chúng ta khuyến khích họ bằng cách viện trợ một khối lượng khổng lồ tài chính và tiếp liệu quân sự để họ tiếp tục cuộc chiến ngay cả khi họ đã mất hết ý chí. Chẳng bao lâu, chúng ta hầu như trả toàn bộ chi phí cho ý đồ tái chiếm thuộc địa này.

Pháp bị người dân Việt Nam đánh bại, phải rút quân về nước. Nhưng Mỹ lại nhảy vào miền Nam, ngăn cản cuộc tổng tuyển cử mà chắc chắn sẽ đưa Hồ Chí Minh lên nắm quyền trong một nước Việt Nam thống nhất. Để giữ miền Nam trong quỹ đạo của Mỹ, chúng ta đã chọn thủ tướng Diệm, một trong những nhà độc tài xấu xa nhất thời hiện đại. Người dân miền Nam phải sống 9 năm dưới sự cai trị tàn bạo của Diệm. Khi Diệm bị lật đổ, lẽ ra họ có thể sống hạnh phúc, nhưng rồi một loạt chế độ độc tài quân phiệt dường như chẳng có gì thay đổi.

Trước phong trào nổi dậy của người dân miền Nam, chúng ta gửi thêm quân lính sang để ủng hộ những chính phủ thối nát một cách kinh dị, lạc lõng, không được dân chúng ủng hộ…. Người dân miền Nam chết dần chết mòn dưới bom đạn của chúng ta và xem chúng ta như kẻ thù đích thực của họ…. Chúng ta buộc họ phải rời khỏi xóm làng của cha ông họ để bị dồn vào những trại tập trung…. Chúng ta rải chất độc xuống các nguồn nước của họ, tàn phá cả triệu mẫu Anh mùa màng của họ…. Chúng ta thử nghiệm những vũ khí mới nhất của chúng ta lên trên họ, giống như bọn Đức Quốc Xã thử nghiệm những loại thuốc mới và những cách tra tấn mới trong các trại tập trung của chúng ở châu Âu…. Chúng ta tàn phá 2 định chế thiết thân nhất của họ là gia đình và xóm làng….

Ở miền Bắc, bom của chúng ta đang liên tục ném xuống đất đai, còn mìn của chúng ta đang gây nguy hiểm cho các đường sông, đường biển…. Cho đến nay, chúng ta có thể đã giết chết một triệu người Việt Nam, phần lớn là trẻ em....

Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã sai lầm ngay từ đầu cuộc phiêu lưu của chúng ta ở Việt Nam, rằng chúng ta đã gây tổn hại cho cuộc sống của người dân Việt Nam....

Bằng cách này hay bằng cách khác, sự điên rồ này phải dừng lại. Chúng ta phải chấm dứt ngay bây giờ…. Chúng ta đã chủ động gây ra cuộc chiến tranh này, chúng ta phải chủ động chấm dứt nó…. Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm này.

Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta phải bồi thường cho những thiệt hại mà chúng ta đã gây ra. Đường lối của Mỹ ở Việt Nam là đáng thẹn và phi nghĩa nên chúng ta phải nói…. Chúng ta không thể im lặng…. Chúng ta phải tiếp tục lên tiếng nếu quốc gia của chúng ta cứ khăng khăng đi theo con đường sai lầm ở Việt Nam. Chúng ta phải sẵn sàng gắn hành động với lời nói bằng cách tìm ra mọi cách phản đối…. Chúng ta phải chuyển từ sự do dự trong quá khứ sang hành động. Chúng ta phải tìm ra những cách nói mới cho hoà bình ở Việt Nam cũng như cho công lý trong thế giới đang phát triển.... Phải làm cho thanh niên Mỹ thấy rõ vai trò của Hoa Kỳ trong việc gây ra chiến tranh ở Việt Nam và yêu cầu họ chọn cách từ chối nhập ngũ vì lý do tín ngưỡng (conscientious objection)."

Ông Martin Luther King, Jr. đưa ra các đề nghị cụ thể:

  • Chấm dứt mọi cuộc ném bom xuống miền Bắc và miền Nam Việt Nam.
  • Đơn phương tuyên bố ngưng bắn với hy vọng hành động đó sẽ tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho thương thuyết.
  • Có ngay những bước đi ngay lập tức để tránh những cuộc chiến tranh khác ở Đông Nam Á bằng cách cắt bỏ việc xây dựng quân sự của chúng ta ở Thái Lan và sự can thiệp của chúng ta ở Lào.
  • Thừa nhận một cách thực tế rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng được sự ủng hộ to lớn ở miền Nam Việt Nam và vì vậy phải đóng một vai trò trong các cuộc thương thuyết và trong chính phủ tương lai ở Việt Nam.
  • Ấn định ngày đưa toàn bộ lính nước ngoài ra khỏi Việt Nam phù hợp với hiệp định Genève 1954.

Bài phát biểu của Martin Luther King, Jr. đã làm tỉnh ngộ rất nhiều người Mỹ, vốn lúc đó vẫn còn biết rất ít về quá trình xâm lược của Mỹ vào Việt Nam. Ông trở thành một trong những nhân vật đứng đầu sáng giá nhất của phong trào chống chiến tranh ở Hoa Kỳ. Uy tín của ông ngày càng tăng. Ông đã kêu gọi được hơn 10 vạn người xuống đường biểu tình ôn hòa phản đối chiến tranh ở New York ngày 15/4/1967, bất chấp bị những chiếc dùi cui giáng xuống, bị bắt giữ, hành hung, trấn áp.
Martin Luther King, Jr. tại trường đại học Minnesota, kêu gọi sinh viên Mỹ phản đối Chiến tranh Việt Nam, chống bắt lính, chống nhập ngũ.


Để tạo cớ đàn áp những người phản đối chiến tranh, chính phủ Mỹ cho CIA tạo dựng những hồ sơ giả và tung tin "phong trào đòi hòa bình được khởi động từ Hà Nội", những người chống đối chiến tranh, chống quân dịch là "những người cộng sản hành động theo lệnh của các chính phủ nước ngoài", với những ám chỉ rằng đó là Việt Nam và Liên Xô.

FBI cho người nghe lén điện thoại của ông, đặt máy ghi âm trong phòng khách sạn của ông. Cho tay sai khủng bố tinh thần ông bằng thư rác hay những cú điện thoại nặc danh chửi bới thô tục, quấy rối, dọa bắt cóc, thậm chí cả dọa giết. Nhà của ông ở Montgomery bị đặt bom. Cảnh sát địa phương "không điều tra ra là ai làm". Ông thừa biết những đòn bẩn nhưng vẫn không chùn bước và tiếp tục hoạt động hăng say trong phong trào phản chiến.

Ngày 28/3/1968, ông tổ chức một cuộc biểu tình đòi hoà bình, yêu cầu chính phủ Mỹ rút quân ở thành phố Memphis, bang Tennessee. Chính quyền phái hơn 4 ngàn Vệ binh quốc gia đến trấn áp, xua đuổi, đánh đập, bạo hành, bắt phải giải tán và bắt giữ 276 người. Ba ngày sau, 31/3/1968, quyết không khuất phục, ông có mặt ở thủ đô Washington tiếp tục nói chuyện tại Nhà thờ Quốc gia.

Vào cuối năm ấy sẽ có cuộc bầu cử tổng thống mới ở Mỹ. Chiến tranh Việt Nam đang là đề tài mang tính thời sự nóng bỏng trong suốt thời gian vận động tranh cử. Những ngôn luận, chính kiến, quan điểm phản đối chiến tranh, phản biện chính sách quân sự, đối ngoại của chính phủ Mỹ có thể khiến Johnson mất đi nhiều phiếu. Vì vậy Martin Luther King, Jr. càng nhận được nhiều thơ từ, cú phone nặc danh dọa giết, dọa ám sát. Trong bài phát biểu ngày 3/4/1968, ông nói trước đám đông: "Cũng như bất kỳ ai, tôi cũng muốn sống thọ. Sống thọ là điều quan trọng, nhưng hiện nay tôi không quan tâm đến điều đó nữa".

Ngay ngày hôm sau, 4/4/1968, buổi chiều, khi ông đang đứng ở lầu 2 của khách sạn Lorraine ở Memphis, ông bị bắn. Hơn một tiếng đồng hồ sau, ông trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Saint Joseph.

Hay tin ông từ trần, nhân dân Hoa Kỳ và những người yêu hòa bình trên thế giới vô cùng thương tiếc. Ngày 9/4/1968, hơn 30 vạn người đau buồn tiễn đưa linh cữu của ông ra nghĩa trang. Kẻ chủ mưu cho đến nay chưa bao giờ được đưa ra ánh sáng. Sự kiện này trở thành một trong nhiều sự kiện ám sát gây tiếng vang ở Mỹ mà đến nay vẫn "không tìm ra chủ mưu".
Tổng thống Lyndon B. Johnson đã bất lực trong việc thuyết phục, ép buộc Martin Luther King, Jr. từ bỏ cuộc đấu tranh bất bạo động của ông.


Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và quân đội xâm lược Mỹ, nhân dân thế giới đã đứng về phía nhân dân Việt Nam, bao gồm cả nhân dân Mỹ, chống lại sự gây chiến của Mỹ và các tội ác họ gây ra ở Việt Nam, trong đó có mục sư Martin Luther King, Jr.. Ngày nay ở Việt Nam, có một con đường khang trang ở quận 7 TPHCM mang tên Martin Luther King, Jr..
Bài nói chuyện "Tại sao tôi phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam" của Martin Luther King, Jr., nói về cuộc đấu tranh chống lại "Tam ác" (phân biệt chủng tộc, bóc lột kinh tế, phiêu lưu quân sự). Bài nói chuyện diễn ra ở Nhà thờ Ebenezer Baptist ngày 30 tháng 4 năm 1967.

oOo


Norman Morrison và Martin Luther King, Jr. đã trở thành một trong các biểu tượng cao đẹp nhất tiêu biểu cho sự ủng hộ to lớn của người dân Mỹ và bạn bè thế giới, đã góp phần làm nên thắng lợi cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam.

Đó là một trong những nguyên nhân vì sao trong cuộc thảo luận tại phiên họp thứ 22 của Liên Hiệp Quốc năm 1967 chỉ có các đại diện của 7 quốc gia ủng hộ chính sách của Mỹ tại Việt Nam. Trong khi đại diện của 44 quốc gia đã phản đối gay gắt chính sách của Mỹ, trong đó có 5 đồng minh của Mỹ trong khối NATO.

Phong trào chống chiến tranh Việt Nam ở Mỹ đặc biệt bùng nổ lan rộng sau tác động to lớn của chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Cuộc tổng tiến công và khởi nghĩa này đã biến hậu phương nước Mỹ trở thành một mớ hỗn loạn rối ren.

Phong trào phản chiến sau sự kiện Tết Mậu Thân đã bùng nổ thành một cao trào phản chiến lịch sử, gần như biến thành một cuộc nội chiến đẫm máu. Máu đã đổ khắp nơi trong lòng nước Mỹ. Dân Mỹ kéo xuống đường biểu tình để rồi bị đàn áp, bắt bớ, đánh đập, bắn giết.

Từ đó, quân đội Mỹ ngày càng rệu rã, xuống tinh thần, suy thoái đấu chí và bắt đầu gia tăng những hiện tượng nghiện ma túy, hút chích, sĩ quan bắn chết lính, lính bắn chết sĩ quan rồi đào ngũ bỏ trốn.

Sự kiện Mậu Thân 1968 đã lột trần sự thật tình hình chiến cuộc và tình trạng quân lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam, làm cho tất cả người Mỹ, từ công chúng đến quan chức đến quân đội ở Mỹ đều nhìn nhận ra điều mà lâu nay họ không đủ dũng khí để chấp nhận: Trên 55 vạn quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, báo cáo bao nhiêu chiến thắng, tốn bao nhiêu nguồn lực, nhân mạng, tiền của đổ vào chiến trường miền Nam Việt Nam, rốt cuộc không giữ nổi cả Tòa đại sứ. Một cảm giác tuyệt vọng, chán chường, cảm thấy tất cả đều vô ích, công cốc hết. Người dân Mỹ thì cảm thấy bị phản bội bởi các tuyên truyền tâm lý chiến dối trá. Nhiều quan chức Mỹ cảm thấy bị lừa dối bởi những báo cáo lạc quan giả tạo.
Khoảng 50.000 người dân thủ đô Hoa Kỳ biểu tình phản chiến tại Washington DC.
Ngày 8/2/1965, người dân thủ đô Moskva (Liên Xô) hội họp ủng hộ nhân dân Việt Nam
Jane Fonda (có biệt danh Hanoi Jane ), nữ tài tử nổi tiếng của Hollywood, là một trong những người đi đầu trong giới văn nghệ sĩ Mỹ phản kháng Chiến tranh Việt Nam. Bà từng có mặt tại Hà Nội để chia sẻ nỗi đau với người dân thủ đô trong giai đoạn Không quân Hoa Kỳ đang ném bom dữ dội vào thành phố, vào nhà dân. Trong khi Hoa Kỳ đang ném bom, Jane Fonda đã một mình đến miền Bắc và lưu trú tại khách sạn Thống Nhất, Hà Nội (nay là khách sạn Sofitel Legend Metropole). Trong hai tuần ở VN, bà đã đi thăm bệnh viện Bạch Mai, khu Trương Định, nhà trẻ 20/10, thăm lính phòng không....
Daniel Ellsberg ra tòa vì tiết lộ hồ sơ Lầu Năm Góc về Chiến tranh Việt Nam cho Thời báo New York, sau đó được tha bổng dưới áp lực của dư luận trong nước và quốc tế.... Năm 1971, ông đã gây chấn động nước Mỹ khi bạch hóa bản sao chụp 7 ngàn trang hồ sơ Lầu Năm Góc về kế hoạch leo thang chiến tranh Việt Nam, tạo ra một làn sóng phản đối chiến tranh mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 2002, ông hoàn thành quyển hồi ký Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers (Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), từng là best-seller năm 2002. Ngay từ khi phát hành, cuốn hồi ký của Ellsberg đã gây xôn xao dư luận. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của chính tác giả và những âm mưu của tổng thống Nixon cùng Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Trong tác phẩm, Ellsberg đã mô tả lại quá trình nhận thức của ông ta về Chiến tranh Việt Nam như sau: "Thoạt đầu tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm họa về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác". Daniel Ellsberg từng nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962. Sau đó, ông làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Năm 1967, Ellsberg trở về Mỹ và được phân công làm việc trong nhóm sĩ quan, chuyên viên Lầu Năm Góc chuyên nghiên cứu, phân tích chiến lược tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Tháng 3/2006, Ellsberg trở lại thăm Việt Nam và được trao kỷ niệm chương "Vì hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến của ông dành cho Việt Nam.
Các quân nhân Chiến tranh Việt Nam của Mỹ biểu tình phản đối cuộc chiến, với biểu ngữ: "Chúng tôi sẽ không đánh thêm một cuộc chiến của người giàu."

Cảnh sát dùng dùi cui trấn áp nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh.
Hình bên trái: Cô du kích Nguyễn Thị Kim Lai áp giải người lính Mỹ William Robinson. Hình bên phải: Sự hội ngộ của hai người khi hòa bình lập lại.

IV.F. Nguyên nhân chiến thắng

Từ lúc Mỹ thất bại trước Việt Nam, hầu hết giới nghiên cứu, các nhà sử học, nhà quân sự, nhà chính trị học khắp Đông - Tây khi tìm hiểu về lịch sử Hoa Kỳ, về nước Mỹ, về quân đội Hoa Kỳ, và về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam đều đặt ra một nghi vấn, một câu hỏi: Tại sao Mỹ thua Việt Nam? Tại sao một xứ sở nhỏ bé và được cho là "nhược tiểu" như Việt Nam có thể thắng được đại cường quốc Hoa Kỳ?

Với 58 vạn quân tinh nhuệ, kỷ luật, có kinh nghiệm chiến trường khắp năm châu, với các tướng lĩnh, sĩ quan dày dặn kinh nghiệm khắp thế giới qua Thế chiến II và chiến trường Triều Tiên, từng chiến thắng hầu hết các thế lực quân sự hùng mạnh, thiện chiến từ Á sang Âu. Một quốc gia trong lịch sử hơn 200 năm chưa bao giờ nếm mùi thua cuộc. Một lực lượng không quân vô địch, trăm trận trăm thắng, có sức mạnh áp đảo, với máy bay chiến lược B-52 tối tân nhất thế giới.

Họ dùng gần 60 vạn quân trong nội địa Việt Nam, và cả nhiều căn cứ quân sự bên ngoài và chung quanh Việt Nam, tổng cộng gần 1 triệu thực binh Mỹ, rồi cả quân ngụy và quân chư hầu. Với một trình độ phát triển cao hơn nhiều bậc. Với một trình độ khoa học kỹ thuật vượt trội, áp đảo, với một sức mạnh quân sự, ngân sách quốc phòng, khả năng chi tiêu vũ khí, công nghệ chiến tranh vượt trội. Với những vũ khí hiện đại, tối tân, kể cả vũ khí sinh học hủy diệt thiên nhiên, môi trường, mầm sống, sinh vật, cây cỏ, con người, hủy rụi những rừng già thiên nhiên tồn tại hàng ngàn năm để Việt Cộng không thể ẩn thân. Để lại di hại, di chứng tàn khốc đến ngày nay và có thể ngàn năm sau. Với một nền văn minh công nghệ và trình độ sản xuất vượt bậc và bỏ xa Việt Nam.

Họ huy động một lực lượng không quân đánh đâu thắng đó, chưa từng chiến bại, với đủ mọi loại bom, từ bom chùm, bom bi đến bom Napalm rải thảm lên mảnh đất nhỏ bé, với hơn 8 triệu tấn bom, gấp gần 3 lần tổng số bom mà các phe rải xuống trái đất trong Thế chiến II nói riêng và trong lịch sử chiến tranh của nhân loại nói chung.

Trong 10 năm (1961-1971), quân đội Mỹ đã rải khoảng 75 triệu lít chất độc hóa học, trong đó phần nhiều là chất độc da cam, xuống hơn 10% diện tích đất và gần nửa diện tích rừng ở Việt Nam. Tất cả số bom và chất độc hóa học đó đều dồn lại dội xuống một mảnh đất nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, một quốc gia có tổng diện tích thua nhiều tiểu bang của Mỹ.

Nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và hoạt động môi trường Sarah DeWeerdt, cộng tác viên thường trực của Worldwatch Institute (Viện quan sát thế giới về môi trường) ở Washington (Mỹ), trong bài viết "Modern warfare equals environmental damage" (Các loại hình chiến tranh mới chính là sự hủy hoại môi sinh), đăng trên báo USA Today số tháng 1 năm 2008, đã cho biết sự tàn phá môi trường rộng lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là một trong những nguyên nhân chính mà tiếng Anh có thêm một thuật ngữ mới: "Ecocide" (diệt sinh thái, tương tự thuật ngữ "Genocide" là diệt chủng con người).

Họ bỏ ra hàng tỷ USD lập ra những quân trường rộng lớn, hoành tráng, quy mô, mô phỏng địa lý, khí hậu, thời tiết, phong thổ, rừng cây Việt Nam, nhằm đối phó với chiến tranh du kích của Việt Nam. Xây dựng những cơ quan nghiên cứu, những nhà máy sản xuất những vũ khí đặc thù phù hợp với chiến trường Việt Nam để chống lại con người Việt Nam. Họ làm đủ mọi cách có thể nghĩ ra, họ không bỏ qua một sơ hở nào, một yếu tố nào, một chi tiết nhỏ nào, họ tận dụng mọi lĩnh vực từ chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, tâm lý chiến v.v. đặc biệt là tận dụng ưu thế vượt trội về công nghệ và công nghiệp quân sự. Họ tận dụng mọi lợi thế về khoa học phục vụ chiến tranh. Với những lãnh đạo, tướng lĩnh, chuyên viên tài năng, chuyên nghiệp, làm việc một cách bài bản, khoa học, dưới tay là một đội quân nhà nghề không ai địch nổi.

Họ dùng chiến tranh điện tử với Hàng rào điện tử McNamara, "cây nhiệt đới". Dùng chiến tranh hóa học với những chất độc sinh học, chất độc diệt rừng, hủy diệt dần mòn con người, môi trường, thiên nhiên, nhằm đè bẹp sức kháng cự của người Việt Nam, và dùng chất độc khai quang hủy diệt các rừng già, cây cỏ, gây khó khăn cho du kích Việt Nam ẩn thân, mai phục.

Vẫn chưa hài lòng với 2 loại hình chiến tranh điện tử và hóa học, Hoa Kỳ còn tiến hành thêm một loại hình chiến tranh công nghệ cao là chiến tranh khí tượng. Đây là một loại hình chiến tranh mà họ đã sử dụng những công nghệ tiên tiến, tối tân nhất cùng những thiết bị hiện đại nhất với mục đích làm đảo lộn, hủy diệt sinh thái, thiên nhiên, gây lụt lội, tắc ách ở trên những tuyến của con đường huyết mạch Trường Sơn chi viện từ Bắc vào Nam.... Nhưng rồi họ vẫn thua Việt Nam.

Học viện quân sự West Point nổi tiếng của Mỹ những năm sau mốc thời gian 1975 đã mở nhiều hội thảo khoa học, nghiên cứu, phân tích, tranh luận từ các hiệu trưởng, cựu hiệu trưởng, giáo sư, giảng viên và cựu giảng viên từng phục vụ trong trường, và những người thỉnh giảng được mời từ bên ngoài, thậm chí từ ngoài nước Mỹ. Họ trình bày các nghiên cứu cá nhân, tham gia phát biểu, hội luận, xem xét, thẩm định, đánh giá từng chiến dịch một, từng thời điểm một, và từng góc độ, từng khía cạnh, để giải đáp câu hỏi hóc búa: Tại sao chúng ta thua Việt Nam? Sau đó họ đã phải chỉnh sửa, cập nhật, thậm chí viết mới lại hoàn toàn, in lại nhiều giáo trình quân sự của trường.

Theo trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Không quân Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, khi bình luận chuyên sâu về chiến tranh Iraq trên tạp chí Khoa Học Quân Sự Không Quân của Trung Quốc năm 2010, thì cách thắng một cuộc chiến tranh trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ thường là:

  • Áp đảo ngay từ đầu về chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, tạo ra một sức ép vô hình, một áp lực khổng lồ vô ảnh.
  • Dùng lực lượng không quân và hải quân chất lượng nhất thế giới về năng lực tác chiến và vũ khí tối tân để chiếm lĩnh vùng biển và vùng trời, gây thêm sức ép, tạo thêm áp lực nghẹt thở vây hãm địch.
  • Dùng chiến tranh công nghệ cao và các lực lượng đặc nhiệm, biệt kích có tính lưu động cao, tác chiến nhanh chóng nhằm tê liệt hóa về quân sự và nhanh chóng chiếm lĩnh đầu não, thủ đô của đối phương. Đồng thời áp dụng chiến tranh tâm lý, trong đó có những thủ đoạn khủng bố tinh thần gây khủng hoảng tâm lý để tê liệt hóa về chính trị, xã hội.
Những chiến lược, chiến thuật trên của Mỹ thì ngoài Việt Nam ra cho đến nay chưa gặp đối thủ. Sở dĩ Mỹ thất bại trước Việt Nam, dựa theo các tiêu chí trên thì có thể xét đến các vấn đề sau đây:

  • Việt Nam cũng giỏi về chính trị, tình báo, tuyên truyền, và có ưu thế về yếu tố "nhân hòa". Mỹ không thể áp đảo được.
  • Đúng là không quân và hải quân Mỹ đã hoành hành trên khắp vùng trời và vùng biển của Việt Nam và tận dụng ưu thế hỏa lực của họ. Nhưng ý chí của quân dân Việt Nam đã khiến hải quân Mỹ không thể gây sức ép tinh thần. Không quân vô địch của Mỹ thì gặp phải khắc tinh là hệ thống phòng không tinh nhuệ hàng đầu thế giới của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu và chú trọng xây dựng ngay từ đầu. Không quân Việt Nam không chọi lại Mỹ nhưng các đơn vị phòng không của Việt Nam thì có thể hóa giải không quân của Mỹ.
  • Các biệt đội cơ động, lực lượng đặc biệt, biệt kích thiện chiến tinh nhuệ của họ đều bó tay trước địa hình hiểm trở của Việt Nam, vốn là một ưu thế lớn cho lực lượng du kích bản địa, và thực tế là du kích miền Nam còn cơ động và nhanh nhẹn hơn biệt kích Mỹ nhiều, nhờ trang bị nhẹ và thông thạo đường đi nước bước. Mỹ không có cách bình định được miền Nam, không tiêu diệt được quân Giải phóng, không chiếm được những vùng giải phóng, vì vậy họ không thể tập trung lực lượng lớn để mở một cuộc tổng tấn công ở miền Nam, và càng không thể "mơ giữa ban ngày" về chuyện Bắc tiến, hay hoang đường hơn: Tiến vào Hà Nội chiếm lấy thủ đô của Việt Nam ở tận ngoài Bắc. Họ nhiều lần đem các loại máy bay oanh tạc tối tân nhất ra tàn phá Hà Nội, muốn gây tê liệt hóa đầu não của Việt Nam, nhưng các phi vụ đó đều bị đánh bại phải rút lui về sau những tổn thất nặng nề. Và dân tộc Việt không như những dân tộc khác, Mỹ càng gây tội ác để khủng bố tinh thần thì dân Việt càng bất khuất và căm thù giặc hơn, chẳng những không sợ mà càng nuôi giấu lực lượng kháng chiến, hối thúc con em, con cháu ra bưng biền theo Mặt Trận đánh giặc.

Việt Nam không chỉ đánh bằng quân đội như những đối thủ khác của Mỹ. Việt Nam tiến hành chiến lược chiến tranh nhân dân và kết hợp nhuần nhuyễn khôn khéo với chiến thuật du kích. Đánh trên cả 3 mặt trận: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Với phương châm tấn công "2 chân, 3 mũi, 3 vùng". Hai chân: Chính trị và quân sự. Ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận. Ba vùng chiến lược: Nông thôn, thành thị, miền núi.

IV.F-1. Nguyên nhân sâu xa


Quân đội Mỹ thắng khắp thế giới mà chỉ thua trên đất Việt chính là vì người Việt có một nền văn hóa căn bản vững chắc lâu đời, đặc biệt là văn hóa giữ nước. Văn hóa, tư tưởng này được hun đút từ lòng yêu nước truyền thống của dân Việt truyền lại từ ngàn xưa.

Quân Mỹ không hẳn thua vì không thiện chiến bằng, không dũng cảm bằng, không trung thành bằng. Cũng không thua vì du kích Việt Nam, hay thua vì các khu rừng nhiệt đới ở Đông Dương, hay vì ruồi muỗi côn trùng, vì khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt dễ gây bệnh tật cho người ngoài.

Mỹ thua Việt Nam vì dân tộc Việt Nam có một căn bản gốc rễ, cội nguồn văn hóa vững bền và điều này đã tạo ra một ý chí sắt thép cho từng người lính và người dân chống quân xâm lược. Đây là những ý chí sắt đá mà không một chương trình tâm lý chiến nào có thể hạ gục nổi.

Một số học giả, nhà nghiên cứu lâu nay tin rằng người Việt thắng Mỹ là vì khí hậu, phong thổ, vì du kích tài ba, vì các chiến sĩ biệt động liều lĩnh không sợ chết, vì tướng giỏi, vì lãnh đạo tài đức, vì thiên tài lãnh đạo chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, vì thiên tài chỉ đạo quân sự của đại tướng Võ Nguyên Giáp.... đều không đúng hoàn toàn.

Việt Nam thắng Mỹ vì biết vận dụng lòng yêu nước của đại khối dân tộc, sử dụng vũ khí yêu nước đó chống lại quân xâm lược Mỹ. Vũ khí yêu nước đó có được chính là từ văn hóa giữ nước giữ làng sâu xa từ ngàn xưa, sau ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ một chủ đạo dân tộc sâu sắc từ cội nguồn gốc rễ ăn sâu vào tim óc từng người con đất Việt. Đó là bản sắc dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa chủ đạo cơ bản gốc rễ vốn đã mạnh mẽ, vững chắc từ ngàn xưa.

Bác Hồ đã đúc kết văn hóa đó thành câu danh ngôn: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước!"

Trong Đại Hội Đảng lần thứ 2, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói kỹ hơn: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Những chiếc bánh nuôi quân

IV.G. Ý nghĩa chiến thắng

Từ một đất nước bị các quân đội thực dân cũ/mới xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, Việt Nam đã giành lại hoàn toàn nền độc lập dân tộc một cách trọn vẹn sau gần bao nhiêu thế kỷ chiến tranh, mất nước, chia cắt, bị mất gần nửa lãnh thổ, và trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền được quốc tế thừa nhận, trong một vận hội hòa bình yên ổn và phát triển lâu dài.

Với mùa xuân toàn thắng năm 1975, đất nước Việt Nam về cơ bản đã sạch bóng quân xâm lược, dân tộc Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ thực dân cũ và mới, lành lại nỗi đau chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.

Sự kiện này vừa đánh dấu một mốc son sáng chói trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của người Việt Nam, vừa có ý nghĩa quốc tế quan trọng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam đã góp phần chặn đứng làn sóng chiến tranh xâm lược và vào công cuộc giữ gìn hòa bình thế giới.

Mỹ đã xâm lược Việt Nam, gây xáo trộn hòa bình thế giới. Với thất bại ở Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc ở Mỹ phải lùi một bước lớn về chiến lược, phải thay đổi phương thức bành trướng quốc tế và bá chủ thế giới để tránh một Việt Nam thứ hai. Do thất bại của Mỹ ở Việt Nam, hòa bình chung trên thế giới được bảo đảm. Sau cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thế giới này không còn chứng kiến những cuộc chiến tranh lớn nữa, và các cuộc chiến tranh nhỏ thì không còn xảy ra thường xuyên như trước.

Đối với thời đại, dân tộc Việt Nam là dân tộc thuộc địa đầu tiên đã đánh bại ách đô hộ và cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của Pháp, góp phần quan trọng cùng với phong trào cách mạng vô sản và giải phóng dân tộc trên thế giới gây thoái trào cho chủ nghĩa thực dân cũ, đánh sập hệ thống thuộc địa kiểu cũ, đặc biệt với biểu tượng Điện Biên Phủ lừng danh.

Với chiến công thắng Mỹ, Việt Nam đã hoàn toàn kết liễu mọi hình thức xâm lược của chủ nghĩa thực dân cũ (trực tiếp kéo quân vào xâm lược, chỉ huy, quản lý), mở đầu việc đánh bại chủ nghĩa thực dân mới. Với chiến tích này, nhân dân Việt Nam cũng góp phần làm chuyển biến tương quan lực lượng giữa phe diều hâu hiếu chiến và phía yêu chuộng hòa bình ở Hoa Kỳ nói riêng và trên thế giới nói chung.

Sáng 30/4/1975, những người lính Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam. Lần đầu tiên sau hơn 100 năm, Việt Nam có không còn bóng dáng quân giặc xâm lược trên lãnh thổ mình. Hơn 3 tiếng sau là sự sụp đổ đương nhiên của ngụy quyền. Thắng lợi này là kết quả của đại khối dân tộc trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt và lâu dài giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ. Quân đội Mỹ đã ghi thêm tên mình vào danh sách những bại binh bị Việt Nam đánh bại trong lịch sử.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận định: Điện Biên Phủ và Mùa xuân toàn thắng 1975 là những điểm hẹn lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược!

IV.G-1. Giải phóng hoàn toàn miền Nam


Một thuộc địa kiểu mới, một xã hội thực dân mới thì đương nhiên cần phải giải phóng khỏi tay giặc xâm lược. Nhưng bản thân xã hội trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam còn có những căn bệnh trầm kha, đưa đến nhu cầu cần phải được giải phóng, không thể không giải phóng.

Xã hội trong những vùng tạm chiếm, về văn hóa thì méo mó, thác loạn, Tây hóa, Mỹ hóa. Đời sống tinh thần lệch lạc, đạo đức băng hoại, những phụ nữ ăn mặc hở hang đứng đường chào mời lính Mỹ là những hình ảnh thường thấy trên đường phố Sài Gòn, nhất là về đêm. Thường xuyên có những cô gái trẻ nhảy sông tự tử vì tình và vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Báo chí tư nhân rẻ tiền trần trụi và công khai xúc phạm phẩm giá những nhân vật công chúng để câu khách. Truyện khiêu dâm được xuất bản bán công khai đầy ở các nhà sách.

Văn kiện của Bộ Ngoại giao Việt Nam được giải mật "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua", do nhà xuất bản Sự Thật phát hành năm 1979, đã ước tính: Ngoài các nạn nhân bị thương vong, dị tật, di chứng từ cuộc chiến, nạn nhân chất độc hóa học, người Mỹ còn để lại một nền kinh tế tê liệt, trên 3 triệu người thất nghiệp, gần 1 triệu trẻ mồ côi, khoảng 600 ngàn gái mại dâm, trên 1 triệu bệnh nhân nghiện ma túy.

Đó là hậu quả của một thời kỳ ngoại thuộc lâu dài và buôn lậu ma túy gần 20 năm từ Diệm - Nhu và Trần Lệ Xuân cho đến Thiệu - Kỳ và Nguyễn Thị Lý, cũng như gia đình của họ. Ma túy được bày bán công khai ngoài chợ giữa ban ngày, nhất là ở Chợ Lớn.

Tiến sĩ ngành sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi, ông viết cùng tác giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:

Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Trung Hoa và người Việt Nam vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức có thế lực của người Hoa ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại, và 5 năm sau, một phóng viên của tuần báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của Hàng không Lào, giao cho trùm tội phạm quốc tế Bonaventure "Rock" Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về miền Nam Việt Nam hàng ngày.

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn. Tuy nhiên, nhiều người trong nội bộ cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng trá hình "Sở Nghiên cứu Chính trị - Xã hội", do CIA tài trợ, mới thật sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này.

CIA cũng là một ông "trùm ma túy". CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Myanma và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.

Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.

Nhà ngoại giao người Canada, Gs. Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan ngoại vi của CIA do Miguel Nazar Haro phụ trách.

Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp "giấy phép" đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về cuộc chiến ma túy quy mô lớn đang diễn ra ở Mexico.

Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tấn công nước này vào năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.
Một quán bar ở Sài Gòn dưới thời Mỹ (1969). Năm 1969 là thời điểm quân Mỹ tràn ngập miền Nam Việt Nam đông đảo nhất, lên đến hơn 55 vạn quân. Trong năm này binh lính Mỹ ở Sài Gòn ăn xài khoảng 30 triệu USD mỗi tháng (tương đương 200 triệu USD ngày nay). Ngoài các viện trợ kinh tế dồi dào thì khoản tiển khổng lồ này cũng góp phần làm "thay đổi bộ mặt" của "Hòn ngọc Viễn Đông", tạo ra vỏ bọc hào nhoáng phồn vinh giả tạo.

Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:

Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.

Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.

Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.

Về căn bản, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, và ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành các đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.

Trong bài phê bình "Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975" của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, đã phê phán gay gắt:

"Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là có ‘cháy nhà mới lòi mặt chuột’ Nguyễn văn Thiệu.

Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lửa quê hương tôi", cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4/1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo."

Ngoài sự tê liệt vì tệ nạn buôn lậu ma túy, xã hội trong những vùng tạm chiếm còn bị tê liệt bởi lối sống sa đọa và đồi trụy. Khoảng 6 triệu người Mỹ và gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ ở trong vùng tạm chiếm, đã tạo ra các nhu cầu và văn hóa "tiêu dùng" mới. Để "giúp vui" cho quân Mỹ, Mỹ-Thiệu cho mở cửa hàng loạt phòng tắm hơi, hộp đêm, nhất là ổ mại dâm, nhan nhản khắp Sài Gòn, đặc biệt là xung quanh các cư xá của người Mỹ. Thị trường mại dâm ở Sài Gòn trước năm 1975 được người dân quen miệng gọi là "chợ heo", được Mỹ-Thiệu công khai hóa và hợp pháp hóa. Năm 1966, sau khi từ Sài Gòn về Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright nhận xét: "Mỹ đã biến Sài Gòn thành một ổ mại dâm".

Lối sống đồi trụy, thác loạn, không chỉ là hậu quả của sự có mặt của hàng chục vạn lính viễn chinh nước ngoài trong túi nhiều đô la Mỹ, mà theo một số người, nó còn nằm trong chủ trương ngầm nhằm đồi trụy hóa thanh niên miền Nam, làm cho giới trẻ quên đi hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, không màng tới nghĩa vụ đối với dân tộc.

Từ đó xuất hiện ở Sài Gòn một dòng văn học khiêu dâm trong đó các tác giả chuyên khai thác thị hiếu thấp hèn của người đọc, đề cao "phần con" hơn "phần người", công khai cổ vũ cho những lối sống bệnh hoạn, biến thái. Bên cạnh những "phim con heo" (các danh từ "chợ heo", "phim heo" này đều có nguồn gốc từ đây) bán công khai ngoài phố, báo chuyên in hình phụ nữ khỏa thân (Playboy, Penthouse, Nude....) bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý.... ở ngay trung tâm thành phố, là những tiểu thuyết "người lớn" của những "chuyên gia" viết truyện khiêu dâm như Chu Tử, Lê Xuyên, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thụy Vũ....

Những vấn đề nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa - tinh thần của người dân. Sự sa đọa, trụy lạc trong xã hội đã gây ra nhiều thảm cảnh gia đình và hạnh phúc đổ vỡ, nhiều câu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hằng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, nhảy lầu, nhảy sông, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp, kể cả trong quân đội ở các chức vị cao nhất (một ví dụ là "phó tổng thống" Nguyễn Cao Kỳ thời đó, do "nổi tiếng" với thái độ ngang ngược chĩa súng cướp bồ nhí của đàn em nên bị mọi người gọi là "Kỳ Cao Bồi").

Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng Nhà nước VNCH, 1954-1968), do NXB Đại học Cambridge (Anh) phát hành năm 2008, đã cho biết: "Chiến tranh cũng làm 100.000 thường dân thương vong mỗi năm. Dịch bệnh tăng vọt; dịch tả tăng từ hàng trăm lên đến 20.000 vụ. Khoảng từ 30.000 đến 50.000 người cụt chân tay chờ được lắp chân giả. Và chính phủ Sài Gòn chỉ dành chưa đầy 1% ngân sách cho dịch vụ y tế."

Có lẽ từ những hiện thực trên mà sử gia Stanley I. Kutler trong Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do Simon & Schuster McMillan xuất bản năm 1996, đây là cuốn sách viết theo quan điểm và tuyên truyền chính thức, chính thống và công khai của chính phủ Mỹ, đã phải viết về xã hội dưới thời Mỹ-Thiệu như sau:

"Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khoảng 800 ngàn trẻ em mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sài Gòn và một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giày, rửa xe, móc túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có vào khoảng 500 ngàn gái mại dâm và gái bán ba, trong đó có nhiều người là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội Nam Việt Nam. Họ phải làm cái việc ô nhục này để phụ cặp đồng lương chết đói của ông chồng không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3 triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của quân đội Nam Việt Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm. Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi ở miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay trong khu vực giàu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được mỗi ngày một bữa cơm và một bữa cháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các gia đình còn lại đều đói. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Nam Việt Nam quản lý."
Banner quảng cáo "Đại nhạc hội xuân vùng 4 chiến thuật" ở Sài Gòn (1971).

Tóm lại, miền Nam đã được giải phóng khỏi những gì? Trước hết là khỏi sự chiếm đóng của quân đội Mỹ, sự thao túng, lũng đoạn, ảnh hưởng của giặc ngoại xâm, ách đô hộ thực dân mới, và các tội ác chiến tranh.

Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong những nhà tù lớn được gọi là "Ấp chiến lược", không còn những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, tàn sát, hủy diệt hàng loạt và những tội ác chiến tranh to lớn mà nhiều người coi là những tội ác diệt chủng, chống nhân loại.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, thảm sát, "ba sạch" (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương rồi xả súng. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, "lê máy chém" khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: "Phần lớn trong nhóm chúng tôi không coi người Việt là loài người.". Không còn những thảm kịch hành hạ, tra tấn, cắt bỏ các bộ phận cơ thể phụ nữ, trẻ em. Không còn ai bị đày ra Côn Đảo, Phú Quốc, bị nhốt trong những "chuồng bò", "chuồng cọp". Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất Việt, người Việt.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc, "dội bom nhầm" lên một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết "tổng thống" ngụy. Không còn những lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.

Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần 100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, cướp - hiếp - giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người.

Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai và cô nhi của gần 6 triệu người Mỹ, khiến sau này hình thành một diện xuất cảnh chưa từng có trên thế giới là "diện con lai".
Nhiều trẻ em con lai Mỹ được lính Mỹ đưa về Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975

Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân trường miền Nam không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên miền Nam ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.

Tóm lại là không còn hàng trăm cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn hàng ngàn tội ác của quân xâm lược. Không còn những mảnh đời đau khổ, trong đó có cả lính ngụy và người thân của họ. Không còn cảnh người Mỹ hoành hành khắp miền Nam, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ trẻ em cụ già cho đến "tổng thống".

IV.G-2. Thống nhất đất nước


Kể từ thời Nam - Bắc triều, rồi Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước Việt Nam chưa bao giờ có được sự thống nhất thật sự và lâu dài. Trong thời Nguyễn sau này cũng xảy ra cuộc nổi dậy quy mô lớn của tướng Lê Văn Khôi đánh chiếm Nam Kỳ lục tỉnh ròng rã hai năm, biến Nam Kỳ lục tỉnh trở thành lãnh địa riêng của ông ta và ly khai với triều Nguyễn. Quanh đó là hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân khác chống nhà Nguyễn, nhiều địa bàn trở thành nơi cát cứ ly khai của các thế lực thổ hào địa phương, xưng hùng một cõi.

Khi thực dân Pháp cướp nước ta, họ chia Đại Nam ra 3 kỳ, 3 xứ riêng lẻ (Nam Kỳ - Cochinchine, Trung Kỳ - Annam, Bắc Kỳ - Tonkin) với 3 chế độ cai trị khác biệt, phục vụ cho chính sách "chia để trị", "dùng người Việt trị người Việt".

Về danh nghĩa nhà nước, thì Nam Kỳ là nơi mà người Pháp coi là "xứ thuộc địa" của họ từ hiệp ước nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ của Tự Đức, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp, và sau đó họ hành quân chiếm thêm 3 tỉnh với "lý do" nhà Nguyễn không tôn trọng hiệp định hòa bình đã ký, dung túng nghĩa quân.... Còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ, về danh nghĩa, được người Pháp gọi là "xứ bảo hộ" cho một vương triều "độc lập" của An Nam. Như vậy, dưới thời Pháp thuộc, nước Việt vừa bị chia 2, vừa bị chia 3. Chia 2 về danh nghĩa nhà nước. Chia 3 về chế độ cai trị.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc và mấy năm bị quân Nhật xâm lược. Chính phủ Việt Nam tuyên bố độc lập và thống nhất, xóa bỏ chế độ Bắc-Trung-Nam của thực dân và phát xít.

Tuy nhiên, sau đó quân Tàu Tưởng kéo vào miền Bắc, liên quân Anh - Pháp kéo vào Nam, sau đó thực dân Pháp quay lại tái chiếm thuộc địa, đại nghiệp thống nhất đất nước bị các thế lực đầy tham vọng từ nước ngoài ngăn trở. Quân dân Việt Nam trên cả nước phải bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt chống quân Pháp xâm lược.

Sau khi hiệp định Genève 1954 được ký kết, đại nghiệp thống nhất Tổ quốc lại phải chờ hai năm. Nhưng Mỹ, vốn trong chiến tranh Pháp - Việt chính là kẻ đứng sau yểm trợ thực dân Pháp, đã từ hậu trường nhảy ra phía trước sân khấu, từng bước hất cẳng Pháp ra khỏi võ đài chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải xưa và nay

Mỹ-ngụy đã phủ nhận hiệp định Genève về Đông Dương và dùng bạo lực ngăn cản việc thi hành hiệp định, với ý đồ chia cắt đất nước, canh giữ sông Bến Hải, ngăn cầu Hiền Lương ở vĩ tuyến 17, chia cắt không cho miền Nam và miền Bắc gặp nhau, gây khó khăn một cách có hệ thống cho việc giao lưu, qua lại, liên lạc Bắc-Nam.

Mỹ-ngụy chia cắt không cho nhân dân hai miền liên hệ. Họ chia cắt, gom dân, đàn áp, bỏ tù, bắn giết, không cho lãnh đạo miền Bắc vào miền Nam, không cho Đảng bộ miền Nam liên hệ ra Bắc. Họ xây dựng một loạt đồn bốt cảnh sát rải dọc bờ Nam sông Bến Hải, kéo dài từ Cửa Tùng đến Hói Cụ; với đội quân thám báo, mật vụ nhằm kìm kẹp, ngăn cản mọi sự quan hệ, qua lại của người dân đôi bờ.

Biết bao nhiêu nỗi khổ, nỗi nhớ nhung ray rứt người thân mà người dân đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải quanh vĩ tuyến 17 phải chịu đựng. Nhiều gia đình ly tán, chồng Bắc, vợ Nam. Những nỗi nhớ, nỗi niềm này còn được phản ảnh qua nghệ thuật. Đã có nhiều thơ văn, thi ca nói lên nỗi đau chia cắt, như "Bên ven bờ Hiền Lương, chiều nay ra đứng trông về…. ôi mắt đượm tình quê…. mắt đượm tình quê…." (bài hát Câu hò bên bờ Hiền Lương - nhạc sĩ Hoàng Hiệp), "Cách nhau chỉ một mái chèo - Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây." (nhà thơ Thanh Hải), hay "Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ - Cách một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa." (dân gian).

Vào giai đoạn 1954-1964, ở đôi bờ Bến Hải đã được phát thanh lên một giọng ca ngọt ngào, ấm áp của NSND Châu Loan với những bài thơ, bài hò do bà thể hiện rất truyền cảm:

"Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Thiếp xa chàng ngày đợi đêm trông
Trong đồn chàng có nhớ thiếp không?
Ngoài này thiếp vẫn chờ mong chàng về."
Bộ đội miền Nam rời bỏ quê hương, ruộng vườn, tạm biệt người thân để tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève 1954. Có thể thấy gần như tất cả những người sắp tạm biệt nhau ở hình trên không có người nào buồn bã, ai nấy đều cho rằng chỉ tạm thời xa nhau trong 2 năm, tới năm 1956 đất nước thống nhất họ sẽ về nhà. Không ai ngờ cuộc chia ly 2 năm trở thành cuộc chia ly 21 năm.


Trong phong trào đấu tranh của Đảng bộ và người dân miền Nam đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève 1954, với ý đồ chia cắt lâu dài Việt Nam, Mỹ-ngụy đã gây ra một "cuộc chiến màu sắc": Giữa cầu Hiền Lương có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm được dùng làm ranh giới. Lính ngụy chủ động sơn một nửa cầu phía nam thành màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu còn lại. Sau lính ngụy lại chuyển sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ lính ngụy sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu khác biệt thì ngay lập tức Quân đội Nhân dân Việt Nam liền sơn lại cho giống. Hành động sơn màu cầu là một hình thức đấu tranh chính trị nhằm nói lên khát vọng thống nhất của dân tộc Việt Nam đối với người Mỹ và nhân dân thế giới.

Từ đó, với tinh thần "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước." và "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi." của Bác Hồ, những con cháu của Bác đã tiếp nối cuộc kháng chiến chống Pháp, cố gắng một lần nữa thực hiện cuộc trường chinh gian khổ, kéo dài hơn 20 năm, để đánh đuổi xâm lăng và thống nhất nước nhà. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu chung một màu xanh thống nhất.

Ngày nay, ở bờ Nam sông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: "Khát vọng thống nhất non sông". Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờ Nam sông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng con và gia đình.

Trải qua bao nhiêu gian khổ, đại nghiệp thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam cuối cùng cũng đã hoàn thành vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã dẫn đến kết quả chấm dứt sự chia cắt đất nước của ngoại bang, đưa đến việc hoàn toàn thống nhất Việt Nam về hành chính, xã hội, địa lý, dân cư.

Thống nhất đây là thống nhất tất cả: Thống nhất vùng giải phóng và vùng tạm chiếm ở miền Nam, xóa đi các "mảnh da báo", thống nhất Bắc Bộ và Nam Bộ, thống nhất ba miền Bắc-Trung-Nam, thống nhất toàn bộ lãnh thổ. Về phương diện pháp lý quốc tế, thì năm 1976 họp Quốc hội là thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành 1 quốc gia: Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Thiếu Long

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo


Việt Nam:


  • Hồ Chí Minh toàn tập - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2000)
  • Hồi ức: Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2000)
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược - Nguyễn Quốc Hùng - Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh & Nhà xuất bản Trẻ (2003)
  • Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam - Gíáo sư Phan Huy Lê, Nhà nghiên cứu sử học Dương Trung Quốc, Trần Xuân Thanh - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2010)
  • Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 (tập 1-8) - Trung tướng Giáo sư Hoàng Phương, Thượng tá Nguyễn Văn Minh, Đại tá Hoàng Dũng, Đại tá Trần Bưởi, Đại tá Đỗ Xuân Huy, Đại tá Tiến sĩ Hồ Khang, Trung tá Nguyễn Huy Thục, Trung tá Nguyễn Xuân Năng, Trung tướng Nguyễn Đình Ước, Thượng tá Ngô Văn Bính, Thượng tá Trần Tiến Hoạt, Đại tá Tiến sĩ Trịnh Vương Hồng, Trung úy Lê Quang Lạng, Đại tá Nguyễn Như Minh, Đại úy Nguyễn Văn Quyền, Thiếu tướng Tiến sĩ Phạm Văn Thạch - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995-2008)
  • Quân và dân miền Nam đấu tranh phòng chống vũ khí hóa học của Mỹ trong những năm 1961-1972 - Tiến sĩ Nguyễn Đức Hòa - Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh xuất bản (2009)
  • Cuộc Đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam 1959-1960 - Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Đại tá Lê Hồng Lĩnh - Nhà xuất bản Đà Nẵng (2006)
  • Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre - Thiếu tá Vũ Bình, Đại úy Phạm Hoài Bão, Thượng úy Phạm Ngọc Tuấn - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre xuất bản (1985)
  • Mậu Thân 1968, cuộc đối chiến lịch sử - Nguyễn Phương Tân, Lê Ngọc Tú - Nhà xuất bản Lao Động (2008)
  • 5 Đường mòn Hồ Chí Minh - Đặng Phong - Nhà xuất bản Tri Thức & Phương Nam Books (2008)
  • Bộ Tham mưu Hải quân - Biên niên sự kiện (1959-2004) - Nguyễn Văn Đấu, Dương Thảo, Đặng Văn Tới - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2004)
  • Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975) - Trần Hải Phụng, Lưu Phương Thanh, Hồ Sơn Đài, Trần Phấn Chấn - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1994)
  • Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) - Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Triệu, Lê Minh Đức, Phạm Văn Kim, Cao Văn Sáu, Đặng Văn Tố, Nguyễn Xuân An - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001)
  • Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Đại tá Trần Dương, Đại tá Võ Đức Nhi, Thiếu tá Nguyễn Đức Tấn - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2002)
  • Bài tham luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hội thảo khoa học "Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam" do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tổ chức ngày 14 và 15/4/2005, ghi lại trên Tạp chí Xưa & Nay số 234 (2005)
  • Phim tài liệu "Đồng khởi - Bến tre" - Đạo diễn Lê Phong Lan - Công ty TNHH Truyền thông Đồng đội sản xuất & Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2009)
  • Phim tài liệu "Lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng" - Đạo diễn Hồ Minh Đức - Bộ tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Hãng phim Truyền Hình Thành phố Hồ Chí Minh & Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh sản xuất và phát hành (2011)
  • Phim tài liệu "Nơi huyền thoại bắt đầu" - Đạo diễn Thanh Lan - Trung tâm phim tài liệu phóng sự Đài truyền hình Việt Nam & Đài truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2012)
  • Phim tài liệu "Mậu Thân 1968" - Đạo diễn Lê Phong Lan - Hãng phim truyền hình Bản Sắc Việt & Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2012)


Hoa Kỳ và quốc tế:

  • General Vo Nguyen Giap and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tet Offensive (Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí mật của kế hoạch Tết Mậu Thân 1968) - Nhà sử học, Việt Nam học Merle L. Pribbenow II - Vietnam study department Đại học California xuất bản (2008)
  • Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950-1975 - George C. Herring (Phạm Ngọc Thạch dịch) - Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2004)
  • Lyndon Johnson's War: The Road to Stalemate (Cuộc chiến của Lyndon Johnson: Đường đi đến bế tắc) - Giáo sư Larry Berman - W. W. Norton & Company (1991)
  • The White House Years (Những năm tháng ở Nhà Trắng) - Cựu ngoại trưởng Henry Kissinger - Simon & Schuster (2011)
  • A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân) - Đại tướng William Westmoreland - Doubleday (1976)
  • Kill Anything That Moves: U.S. War Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết bất cứ vật gì chuyển động: Tội ác chiến tranh hung bạo của Mỹ ở Việt Nam) - Nhà sử học kiêm nhà báo Nick Turse - Nhà xuất bản Đại học Columbia (2005)
  • The United States and Biological Warfare: Secrets from the Early Cold War and Korea (Hoa Kỳ và Chiến tranh hóa học: Bí mật từ đầu Chiến tranh lạnh và Triều Tiên) - Stephen Endicott, Edward Hagermann - Nhà xuất bản Đại học Indiana (1998)
  • The War Behind Me: Vietnam Veterans Confront the Truth About U.S. War Crimes (Cuộc chiến sau lưng tôi: Cựu binh Chiến tranh Việt Nam chất vấn sự thật về tội ác chiến tranh Hoa Kỳ) - Deborah Nelson - Basic Books (2008)
  • America in Vietnam: a documentary history (Hoa Kỳ ở Việt Nam: một tài liệu lịch sử) - William Appleman Williams, Lloyd C. Gardner, Walter LaFeber - W. W. Norton & Company (1989)
  • Dictionary of the Vietnam War (Tự điển thuật ngữ về Chiến tranh Việt Nam) - nhà sử học James Olson, Greenwood Press (1988)
  • Crimes of War: What the Public Should Know (Tội ác chiến tranh: Những gì công chúng nên biết) - Lewis M. Simmons - Roy Gutman xuất bản (1999)
  • "Guide to the Vietnam War" (Hướng dẫn kiến thức cơ bản Chiến tranh Việt Nam) - David L. Anderson - Nhà xuất bản Columbia (2004)
  • Những bí mật về Chiến tranh Việt Nam - Tiến sĩ Daniel Ellsberg (Tĩnh Hà, Kiều Oanh dịch) - Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2006)
  • Sự lừa dối hào nhoáng - Nhà báo Neil Sheehan (Đoàn Doãn dịch) - Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2003)
  • 40 ngày sống với đối phương - Richard Dudman (Trần Ngọc Châu, Dương Thủy dịch) - Nhà xuất bản Trẻ (2005)
  • Những gì tôi thấy ở Việt Nam - Alain Wasmes (Nguyễn Huy Cầu dịch) - Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2004)
  • Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam - Cựu Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara (Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch) - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995)
  • The Palace File (Hồ sơ mật Dinh Độc Lập) - Nguyễn Tiến Hưng - Harper & Row Publishers (1986)
  • The Vietnam War in American memory: veterans, memorials, and the politics of healing (Chiến tranh Việt Nam trong ký ức người Mỹ: cựu binh, tưởng niệm, và yếu tố chính trị của sự lành lại vết thương) - Patrick Hagopian - Nhà xuất bản Đại học Massachusetts (2009)
  • Vietnam and Other American Fantasies (Việt Nam và các ảo tưởng khác của người Mỹ) - Bruce Franklin - Nhà xuất bản Massachusetts (2001)
  • Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam Cộng hòa, 1954-1968) - Tiến sĩ James Carter - Nhà xuất bản Đại học Cambridge (2008)
  • Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Một tưởng nhớ về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc) - Tiến sĩ Daniel Ellsberg - Nhà xuất bản Viking (2002)
  • Understanding Power: The Indispensable Chomsky (Nhận diện quyền lực: Chomsky và những điều không thể bỏ qua) - Mitchell Schoeffel, Peter Schoeffel, John Schoeffel - Nhà xuất bản Vintage (2003)
  • The Vietnam War and American Culture (Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ) - John Carlos Rowe, Rick Berg - Nhà xuất bản Đại học Columbia (1991)
  • Historical Dictionary of the 1970s (Tự điển lịch sử của thập niên 1970) - Giáo sư sử học James Stuart Olson - Nhà xuất bản Greenwood (1999)
  • Fire in the Lake: The Vietnamese and the Americans in Vietnam (Ngọn lửa trên sông: Người Việt và người Mỹ ở Việt Nam) - Nhà báo Frances FitzGerald - Nhà xuất bản Back Bay Books (2002)
  • Ngày tàn ngụy chúa - Marshal Brement (Bạch Phương dịch) - Nhà xuất bản Thanh Niên (2011)
  • Vietnam War Era: A Personal Journey (Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam: Một hành trình riêng) - Giáo sư sử học Bruce Solheim - Nhà xuất bản Đại học Nebraska (2008)
  • Anything But the Truth: the Credibility Gap-How the News is Managed in Washington (Tất cả ngoài sự thật: Khoảng cách tin cậy về cách quản lý thông tin ở Washington) - Erwin Knoll, William McGaffin - G. P. Putnam's Sons (1968)
  • The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam) - Nhà chính trị học George McTurnan Kahin, John W. Lewis - Delta Books (1967)
  • Vietnam, a History (Việt Nam, một Lịch sử) - Nhà sử học Stanley Karnow - Nhà xuất bản Edition King (1983)
  • The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á) - Tiến sĩ sử học Alfred W. McCoy, Cathleen B. Read - Harper & Row (1972)
  • The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy) - Bradley S. O’ Leary, Edward Lee - Cemetery Dance (1999)
  • Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) - Sử gia Stanley Kutler - Simon & Schuster McMillan xuất bản (1996)
  • Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) - Đại tá Tiến sĩ Spencer C. Tucker - ABC-CLIO (2000)
  • The secret team: The CIA and its allies in control of the United States and the world (Đội ngũ bí mật: CIA và các đồng minh kiểm soát Hoa Kỳ và thế giới) - Đại tá Fletcher Prouty - Prentice-Hall (1973)
  • Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) - Gabriel Kolko - Pantheon Books (1985)
  • Foreign Aid, War, and Economic Development: South Vietnam, 1955-1975 (Viện trợ nước ngoài, Chiến tranh, và Phát triển kinh tế: Nam Việt Nam, 1955-1975) - Nhà kinh tế học Douglas Dacy - Đại học Cambridge (2005)
  • Death Zones and Darling Spies, seven years of Vietnam War reporting (Tử địa và các điệp viên đáng yêu, bảy năm làm phóng sự về Chiến tranh Việt Nam) - Beverly Deepe Keever - Nhà xuất bản Đại học Nebraska (2013)
  • Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Cuộc chiến thật sự của Mỹ ở Việt Nam) - Nhà sử học kiêm nhà báo Nick Turse - Metropolitan Books (2013)
  • U.S. Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975) - George R. Dunham - Nhà xuất bản Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (1990)
  • Hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report 17/4/1975 - 7/5/1975 - Thiếu tá James H. Kean
  • Cuộc phỏng vấn Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Không quân Quân khu Thành Đô, Trung Quốc trên tạp chí Khoa Học Quân Sự Không Quân (2010)
  • Thời báo New York, phát hành ngày 8/6/1963
  • Tuần báo Time, phát hành ngày 8/6/1964
  • Bưu báo Washington, phát hành ngày 8/6/1964
  • Phim tài liệu "Vietnam: The 10,000 Day War" (Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày) - Đạo diễn Michael Maclear - Tập đoàn Truyền thông Canada (CBC) sản xuất (1980)
  • Phim tài liệu "Vietnam: A Television History" (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình) - Đài truyền hình PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne–2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành (1983)
  • Phim tài liệu "Việt Nam Thống Nhất" - Đạo diễn Yamamoto Satsuo, Toma Hiroichi, Yuki Yoshihiro, Suzuki Toshikazu - Hiệp hội Phát hình Nhật Bản Nippon Hōsō Kyōkai (NHK) sản xuất (1975)
  • Phim tài liệu "The Cu Chi Tunnels" (Địa đạo Củ Chi) - Đạo diễn Mickey Grant - Mickey Grant & Stan Cottrell sản xuất (1986)

Tài liệu Internet

  • Từ điển Bách khoa thư Việt Nam
  • Bách khoa toàn thư mở
  • Bách khoa thư Farlex
  • Đại tự điển Việt Nam
  • Bách khoa Tri thức Việt Nam

Bài liên quan

Tư liệu 2852055786756056727

Đăng nhận xét Nhận xét với Google +

  1. Tôi bút danh "thương nòi" là cộng tác viên gửi khá nhiều bài viết từ trang KCBHN. Tôi có những mục tiêu giống như "đôi mắt". Tôi không tạo Blog cho riêng mình. Các bài viết của tôi nếu có thể đồng thời gửi đến cho KCBHN và cả cho "đôi mắt".
    Nếu bạn đồng ý thì trước hết tham khảo các bài viết của tôi trong mục diễn đàn độc giả với bút danh "thương nòi" và trả lời tôi qua Email: thuongnoi2570@gmail.com
    Mong bạn làm nhiều hơn nữa với khả năng của mình, tôi ủng hộ bạn!

    Trả lờiXóa

@ Bạn đọc: Blog này là nơi thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả Nguyễn Thanh Tùng. Nếu bạn muốn trao đổi cùng tác giả, vui lòng liên hệ trang facebook: Đạo Sĩ Chăn Gà

Nếu đây là lần đầu bạn đến thăm blog, vui lòng xem Thỏa thuận sử dụng để nắm rõ về những quy định của blog trước khi gửi phản hồi.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Để chèn hình ảnh, youtube video và các bài hát từ nhaccuatui vào nhận xét các bạn chỉ cần dán đường link vào nhận xét của mình.

emo-but-icon

Bỉ ngôn

Kênh Youtube

Thư viện blog

item